Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2011

Những bệnh không được uống nhiều nước

Cả hai phương pháp khoa học và cổ điển đều có ưu điểm là chính xác nhưng khuyết điểm là tốn kém tiền bạc thời giờ và mất nhiều máu để thử nghiệm theo tây y, hoặc khuyết điểm của đông y là không có nhiều thầy thuốc kinh nghiệm bắt mạch giỏi phân biệt được rõ ràng những biến đổi âm dương mất quân bình trong cơ thể qua sự chẩn đoán bằng mạch. Do đó đông y cổ đại đã bổ sung phương pháp chẩn đoán bệnh bằng huyệt, mỗi tên huyệt cũng đã nói lên được chức năng chuyển hóa âm dương, khi bấm vào huyệt cảm thấy đau nhiều là bệnh thực, không đau là bệnh hư.

1-Tăng ngấm nước trong tế bào.
2-Giảm áp lực thẩm thấu trong huyết tương, có dấu hiệu lâm sàng như : chán ăn uống, buồn nôn, ói mửa, nhức đầu, suy nhược, rối loạn tâm thần, xét nghiệm thấy giảm natri-huyết.
3-Máu loãng protid-huyết giảm.
4-Thiếu Natri do ăn nhạt, kiêng khem, uống nhiều nước làm giảm natri huyết và làm loãng máu sinh chán ăn, kiệt sức, phù não do rối loạn mất cân bằng điện giải, rối loạn thần kinh gây co giật .
5-Bệnh thận thoát mất Natri do điều trị sai lầm trong các bệnh viêm thận, bể thận mạn, thận đa u nang.
6-Bệnh ứ nước do cung cấp thừa nước hoặc thừa dung dịch Glucoza, cho uống nước trong khi có bệnh suy thận giảm niệu.
7-Thận suy, mất muối do lạm dụng thuốc lợi tiểu,
8-Thận ứ nước.
9-Dư thừa hormon kháng lợi tiểu, hội chứng cận ung thư do tăng tiết hormon kháng lợi tiểu, áp suất thẩm thấu cao, bài niệu natri qúa mức.
10-Suy thượng thận Natri giảm, Kali tăng
11-Bệnh đi tiểu đêm nhiều lần .
12-Bệnh tuyến tiền liệt .
13-Bệnh thận kẽ tổn thương đường niệu
14-Tràn dịch màng phổi .
15-Bệnh suyễn, khó thở, nhiều đàm
16-Ung thư phế quản với tế bào nhỏ tiết một chất kháng lợi tiểu giống như pitressin
17-Qúa tải nước làm rối loạn chất điện giải.
18-Bệnh tắc ruột
19-Bệnh tiêu chảy do dư nước
20-Liệt ruột, phình ruột, sưng háng, đã có một bệnh nhân phải cắt bỏ 40cm ruột già, nhưng không được cho biết nguyên nhân do mỗi lần uống nước với số lượng nhiều vượt qúa sức chứa của trực trường, tiếp tục uống nhiều nước làm xệ ruột , bụng dưới to chèn ép đông mạch háng , khiến chân trái phù đầu gối có nước phải mổ đầu gối, một năm sau cắt thêm một đoạn ruột bị trương phình chỗ nối, lại vẫn tiếp tục uống nhiều nước, sau có người giới thiệu đến tôi chữa chân gối đau đi không được . Tôi mới cho biết nguyên nhân bệnh là do uống nhiều nước, bà ta nói sắp đi mổ làn thứ ba, nhưng bác sĩ cho biết đoạn ruột sát hậu môn qúa không thể nối được sẽ cho đeo túi bên hông . Tôi chỉ cho bà đứng Ngũ hành tấn, và uống nước trà có chất chát cho săn ruột, mỗi lần 1 chung nhỏ thay vì uống 250cc một lần . Cách đây hơn 10 năm bà đã khỏi, tiêu hóa tốt, bụng săn lại, nhu động ruột đàn hồi tốt, không phải bị mổ lại lần thứ ba nữa.
Hiện nay ở phòng mạch của tôi đa số bệnh nhân người ngoại quốc có những bệnh này do uống nhiều nước đều phải tập khí công và bớt uống nước để khỏi phải mổ ruột oan uổng.
21-Suy tuyến giáp
22-Chấn thương sọ não có bọc máu dưới màng cứng, khốu u não, viêm não, tăng áp lực sọ não.
23-Rối loạn chuyển hóa
24-Ung thư tuyến tụy, tuyến ức, sacrome-lưới.
25-Bệnh suy tim, tim thòng .
26-Bệnh thiếu hồng cầu.
27-Bệnh áp huyết thấp .
28-Giảm trương lực cơ, chán ăn, buồn nôn, đau thượng vị .
29-Tim đập nhanh ngoại tâm thu, điện tâm đồ T dẹp, ST ngắn.
30-Viêm động mạch vành
31-Tăng năng tuyến cận giáp nguyên phát
32-Ứ nước do Xơ gan cổ trướng
33-Hội chứng thiếu dinh dưỡng sau khi cắt bao tử có tình trạng phù, giảm protid-huyết, tiêu chảy đi phân mỡ, thiếu máu
34-Chán ăn do rối loạn thể dịch làm tăng ure-huyết, giảm natri-huyết, tăng calci-huyết
35-Viêm tụy mạn, ung thư tụy có dấu hiệu đau thượng vị, nặng bụng, đau thắt ngang lan tỏa ra sau lưng.
36-Bệnh tim phổi mạn tăng áp lực động mạch phổi.
37-Đau hạ sườn trái do viêm tụy cấp hay do cơn đau căng phình kết tràng sau bữa ăn hay do viêm thận ứ nước
38-Viêm tai, có nước trong tai .
39-Rối loạn nhịp tim do dư nước, do van tim, ở người mập nước .
40-Natri-niệu thấp dưới 20mEq/24 tiếng do chế độ ăn nhạt, ói mửa tiêu chảy vã mồ hôi , xơ gan, giảm niệu kèm với dấu hiệu qúa tải nước
41-Phù hai chi dưới do phù tim bởi gan to, phổi ứ đông nước, phù thận kèm với albumin-niệu, xơ gan cổ trướng.
42-Phù phổi do qúa tải nước, thừa nước và muối do truyền dư thừa sérium nhất là ở người bệnh thận hay ở người cao áp huyết.khiến tim đập nhanh qúa mức.
43-Phù toàn thân do phù tim, suy tim toàn bộ hay suy tim phải, viêm màng ngoài tim co khít, phù thận chiếm ưu thế ở mặt, viêm thận tiểu cầu cấp, hội chứng hư thận, suy thận mãn do dư nước,suy dinh dưỡng kèm với nhịp tim đập chậm, thân nhiệt giảm kém hấp thụ, dư nước làm chán ăn.
B-Những bệnh không được uống nhiều nước theo mạch chẩn của đông y :
1-Mạch Trì : mạch đi chậm, 1 hơi thở mạch đi chập 1-3 lần, thuộc bệnh dương hư, lý hàn trong và ngoài cơ thể lạnh
2-Mạch Vi : Mạch đi nhỏ li ti không rõ chỉ như sợi tơ nhện nghe như khi có khi không, thuộc bệnh khí huyết đều hư, bệnh đang phát, hàn khí kết đọng dưới rốn nổi cộm đau.
3-Mạch Hoạt : Mạch chạy trơn tru như kéo 1 chuỗi hạt chạy qua tay, thuộc bệnh huyết và dịch chất nhiều nhưng khí trê làm ứ đọng sinh đàm, ho hắng, ăn vào thấy đầy .
4-Mạch Phục : Mạch đi ẩn nấp, ấn sát tay đến tận xương mới nghe thấy, thuộc bệnh âm dương bất giao thường làm đau bụng, lúc ói mửa lúc đi tiêu chảy .
5-Mạch Kết : Mạch đang đi bị nghẽn đi chậm lại khó khăn, thỉnh thoảng phải ngừng lại một cái , thuộc bệnh âm tà thịnh hơn dương tà, nội tà đọng lại thành tích kết.
6-Mạch Tán : Mạch thốn ở Nhân nghinh vừa phù, đại, đời, nhu . Ở khí khẩu vừa phù, sắc, đời, đại , thuộc bệnh tà khí thịnh làm thoát khí huyết .Mạch tán ở Nhân nghinh là tà khí thoát ra, ở khí khẩu là khí của tạng phủ mất, đaị tiểu tiện không cầm, chân tay gía lạnh, người xám lợt có thể chết.
7-Mạch Trầm vô lực :Bệnh khí uất không thông làm thủy thủng, phù nước đọng không tiêu, ngực đây nghẹn, bụng có hòn cục để lâu không chữa thành bệnh trưng hà (ung thư).
8-Mạch Trầm Trì : Ở khí khẩu là lý hàn, huyết lạnh trong tạng phủ đọng lại do khí trệ không đẩy huyết lưu thông được .
9-Mạch Trầm Huyền : Trong bụng lạnh đau từ hoành cách mô xuống bụng do hàn khí.
10-Mạch Trầm Cách : Do chứng ứ huyết và dịch chất trong người .
11-Mạch Trì Sác : Do khí thấp và nhiệt đình trệ trong người làm ra bệnh ợ chua, nổi hòn cục trong bụng, ấn thấy đau, để lâu thành ung thư .
12-Mạch Trì Kết : Dưỡng trấp không hóa huyết mà biến thành đàm.
13-Mạch Sác,Tế vô lực : Bệnh âm suy bại, nếu ở Nhân nghinh là Tim, gan,thận suy .
14-Mạch Huyền Khẩn : Do khí lạnh đọng ở kinh lạc làm thành bệnh tích tụ ung bướu trong người.
15-Mạch Huyền Trường : Bệnh tích tụ trong tạng phủ ngày nay gọi là ung thư .
16-Mạch Khẩn Trầm : Đau bụng do hàn khí kết đọng ở trường vị .
17-Mạch Khẩn Phù : Trong phổi có nhiều hơi nước.
18-Mạch Hoạt ở Khí khẩu : Do uống nước nhiều không tiêu đọng lại thành đàm dãi.
19-Mạch Hoạt Phù : Bụng trên bụng dưới đau dữ dội .
20- Mạch Hoạt Tán : Đàm nhiều do ứ nước, ít huyết, sẽ bị bán thân bất toại vì đàm theo huyết làm tắc tuần hoàn, trước khi bị bán thân bất toại, nửa bên người da thịt ấm, nửa bên da thịt lạnh không cảm giác.
21-Mạch Phục ở Xích bộ: Báo cho biết có hàn khí tích tụ sẽ làm ra dạng bệnh ung thư hàn
22-Mạch Tế :Hàn khí và thấp khí đọng ở phủ tạng và huyết mạch sinh đầy trướng .
23-Mạch Tế Khẩn : Khí huyết hàn thấp trong người tích tụ gây ung thư, trước khi bị ung thư có triệu chứng thần kinh co rút làm đau lưng mình mẩy, nếu thấy mạch này ở khí khẩu là do khí huyết đều hư biến thành đàm dãi đóng ở ngũ tạng.
24-Mạch Kết Phù : là Hàn tà đọng ở kinh lạc.
25-Mạch Kết Trầm : Đàm ẩm hoặc huyết ứ đọng lại làm kinh mạch không thông.
26-Mạch Kết Hoãn : Trong người kết đọng hàn khí nhiều đàm tích tụ trong tạng phủ làm thành bệnh ung thư .
27-Mạch Trì, Hoãn, Sắc : Bao tử kết hàn thành cục.
28- Tâm bộ có Mạch Phù Trì : Hàn tà làm đau bụng dưới.
29-Tâm bộ có Mạch Phù Tuyệt :Bụng dưới rốn đau do tỳ hàn thành bệnh ung thư .
30-Tâm bộ có Mạch Trầm,Tế, Hoạt : là thủy khắc tâm hỏa , bệnh nặng khó chữa.
31-Tâm bộ có Mạch Trầm Khẩn :Thận thủy có tà khí tràn lên khắc tâm hỏa làm đáy tim nở lớn, gây đau tim .
32-Tâm bộ có Mạch Trầm Phục : Khí tích tụ ở 2 kinh Tâm Phế làm tắc nghẽn tim ngực do nhiều đàm chặn dưới tim vì dưỡng trấp không lên tâm phế hóa huyết mà bị đình trệ biến thành đàm .
33-Can bộ có Mạch Trầm Phục : Khí lạnh nhập huyết làm tuần hoàn huyết chậm lờ đờ không ra đến đầu chi nên ngón chân tay khó co duỗi.
34-Thận bộ có Mạch Phù Sắc : Thận hư do khí lạnh vào thận khiến thận nở to, làm sưng dái .
35-Thận bộ có Mạch Phù Đại : Hàn tà thấm vào Tiểu trường làm ra chứng sa đì, xệ âm nang, đi tiểu ra có mùi khắm.
36-Thận bộ có Mạch Trầm Trì :Thận lạnh đi tiểu luôn làm tinh khí bạc nhược, đàn bà bị huyết kết ứ ở tử cung làm ung thư tử cung.
37-Thận bộ có Mạch Trầm Huyền : Bao tử lạnh không khắc chế được thận thủy nên tà thủy đọng lại ở hạ tiêu làm đau bụng dưới, sưng tuyến tiền liệt, phù thủng chân.
38-Thận bộ có Mạch Trầm Thực : Âm khí tụ ở hạ tiêu sinh trùng hay đóng cục cứng ở bụng dưới làm thành ung thư.
39-Thận bộ có Mạch Trầm Sác : Thận hư không đem khí vào Tam tiêu dẫn vào trường vị để làm ấm trường vị giúp tiêu hóa tốt cho nên bụng lạnh khiến bụng sôi kêu như sấm.
40-Phế bộ có Mạch Phù Trì : Phổi bị lạnh, đàm kết ở ngực, ăn uống khó tiêu, đi tiêu chảy.
41-Phế bộ có Mạch Phù : khí phế kém nên dưới tim có nước và có nước trong màng phổi.
42-Phế bộ có Mạch Trầm Trì : Ăn uống khó tiêu sinh đàm nhiều. Phế hàn, kỵ thức ăn có chất béo, cam, chuối, bơ, sữa, dừa, và uống nhiều nước sẽ tạo thành đàm hay khạc đàm lâu dần làm phế khí suy giảm.
43-Phế bộ có Mạch Trầm, Khẩn, Hoạt : Phế bị phong hàn tà hoặc do thức ăn biến thành đàm, ho đàm khò khè.
44-Tỳ bộ có Mạch Phù Trì : Tỳ vị hư hàn đầy trướng, vỗ bụng kêu bồm bộp.
45-Tỳ bộ có Mạch Phù Sắc : Tỳ vị hư hàn ăn uống không tiêu đọng lại trong bao tử .
46-Tỳ bộ có Mạch Phù Khẩn :Bụng đầy lạnh, đau sôi bụng luôn.
47-Tỳ bộ có Mạch Phù Hư : Bao tử có hàn khí không đủ nhiệt độ chuyển thức ăn hóa khí nuôi phế, nên làm cho phổi yếu, ngắn hơi, khó thở.
48-Tỳ bộ có Mạch Trầm Sác : Trầm thuộc hàn, Sác thuộc nhiệt, hàn nhiệt xung khắc trong tỳ vị làm mất chính khí nuôi tạng phủ sinh mệt mỏi ưa nằm, ăn rồi lại ói ra, miệng hôi, chân răng chảy máu, sờ bụng có chỗ đau.
49-Tỳ bộ có Mạch Trầm Trì : Do ăn nhiều rau quả sống sít lạnh làm khó tiêu đọng lại thành tích tụ đau bụng sinh đàm khiến bụng trương phình, khó thở, ngắn hơi, biếng ăn.
50-Tỳ bộ có Mạch Trầm Phục : Âm khí uất kết thành khối u trong bụng làm thành ung thư bao tử, lá mía .
51-Tỳ bộ có Mạch Trầm Sắc : Tâm hỏa suy kém không nuôi tỳ thổ để khí hóa thức ăn khiến bụng đầy biếng ăn hay nôn oẹ .
52-Tỳ bộ có Mạch Trầm Nhu :Tỳ vị lạnh sinh kém hơi làm suy phế khí thành suyễn.
53-Tỳ bộ có Mạch Trầm, Nhược, Hoạt :Hạ tiêu lạnh làm chân lạnh chuột rút.
54-Mệnh môn bộ có Mạch Phù Huyền : Nước uống vào bị đọng lại trong bụng dưới làm quặn đau .
55-Mệnh môn bộ có Mạch Phù Hoạt : Đàm hỏa nhiều làm hại kinh Tam tiêu làm ra chứng đi cầu khát nước nhưng càng uống nước nhiều càng sôi bụng.
56-Mệnh môn bộ có Mạch Trầm Trì : Mệnh môn hỏa suy làm đại tiện lỏng nát, tiểu ra nước trong mà đi tiểu hoài rút nước của cơ thể sinh hao mòn vì thận không lọc và điều hòa nước .
57-Những người có bệnh thủy thủng, người xanh nhợt hay trắng bệch, không khát, đi cầu luôn, nước tiểu trong khó đi, thuộc âm chứng, có mạch Trầm,Trì,Sắc .
58-Bệnh đau nhức ống chân không phải do thấp, do nhiệt mà do hàn tà có Mạch Trì.
59-Do uống nước nhiều qúa cho nên đàm ngấm vào cơ thể gây bế tắc khí huyết, sờ tay nơi bụng nổi cục cứng rắn chắc, có Mạch Sắc, Tán .
60-Nước tiểu trong do thận hàn không khí hóa để hoàn thành chức năng lọc có Mạch Hư, Đại.
61-Bướu trong ngực có Mạch Thốn Trầm, Phục, Tế.
62-Bướu ở cổ, Thốn bộ có Mạch Vi.
63-Bướu ở cuống bao tử dưới rốn ở Quan bộ có Mạch Vi.
64-Đáy tim lớn có Mạch Vi ở giữa Quan Thốn bộ.
65-Bướu ở Tiểu trường , Quan bộ có Mạch Vi .
66-Bướu ở trên háng thuộc bộ sinh dục nam nữ, ở Xích bộ có Mạch Vi. Xích bộ 1 bên có bướu 1 bên như buồng trứng, cả hai xích bộ có Mạch Vi có bướu ở giữa như cổ tử cung, tử cung.
67-Ung bướu gan, ở Quan bộ có Mạch Huyền Tế.
68-Ung thư hay bướu phổi, phế bộ có Mạch Phù Tế.
69-Bướu thận có Mạch Trầm Hoạt.
70-Sưng Tâm bào, nghẹt động mạch vành ở Tâm bộ có mạch Trầm, Khâu.
71-Ung thư lá mía hễ ăn vào là mửa ra ngay, Tỳ bộ có Mạch Thực Trường. Mạch Kết Vi thì kết tích nhỏ, Mạch Kết Phù Đại thì bướu lớn.
72-Bệnh suyễn cấp do ứ nước trong phổi có Mạch Trầm Phục Thực Hoạt. Nếu chân tay ấm Mạch Hoạt còn chữa được, chân tay lạnh mạch Phù Sác, ra mồ hôi như dầu, dù có rút nước phổi ra cũng khó sống.
73-Bệnh Phong Thủy sợ gió sợ nước làm xương khớp đau nhức, phong tổn thương da lông, thấp thủy chảy vào các khớp làm sưng đau, có Mạch Phù.
74-Bệnh Bì Thủy do nước chảy trong da hợp với phế khí làm bụng to như cái trống mà không cứng chắc vì bệnh chỉ ở ngoài da không phạm nội tạng nên không bị suyễn có Mạch Phù
75-Bệnh Chích Thủy là nước của thận nhiều gây ra suyễn, có Mạch Trầm, Trì do dương hư thận thủy xâm nhập thượng tiêu.
76-Bệnh Thạch Thủy do âm thịnh thủy chỉ kết tụ ở bụng dưới không vận hành nên không xâm nhập thượng tiêu làm thành suyễn, có Mạch Trầm
77-Bệnh Hoàng Hãn mồ hôi vàng thấm ướt áo, người sốt, ngực đầy, tay chân mặt sưng do thấp nhiệt, có Mạch Trầm Trì, bệnh để lâu không chữa sẽ làm ung mủ.
78-Bệnh Lý Thủy, toàn thân sưng vàng, tiểu không thông có Mạch Trầm, tùy theo thủy tích ở tạng nào như : Tâm bị thủy, mình nặng, khó thở, không nằm được, người phiền, khô khát, sưng bộ sinh dục.
Can bị thủy,hông và bụng to không xoay trở được, tiểu tiện lúc được lúc không.
Phế bị thủy, mình sưng, tiểu khó, iả cứt vịt.
Tỳ bị thủy, bụng to, tứ chi nặng nề, khó thở, tiểu khó.
Thận bị thủy, bụng to, rốn sưng, đau eo lưng, bộ sinh dục ẩm ướt có mồ hôi, thủy là âm, thận là âm, hai khí âm hợp nhau làm dương khí không vận hành khiến chân lạnh, thượng tiêu thiếu dương khí nên gầy ốm.
79-Tâm trúng hàn làm trong người khó chịu, nặng thì như có trùng bò qua bò lại từ tim tới lưng đau thấu từ bên này sang bên kia, có Mạch Phù
80-Tỳ trúng hàn, người không vui, hay thở dài, người lạnh, sợ lạnh, bụng đau ăn vào ói ra, đuối sức dần, có Mạch Phù, nếu mạch Phù Đại là vị khí tuyệt tạng tỳ chết.
81-Thận trúng hàn thân thể nặng nề, eo lưng lạnh như ngồi trong nước, có Mạch Phù.
.C-Những bệnh không được uống nhiều nước được kiểm chứng bằng huyệt :
Theo xét nghiệm của tây y cũng dựa trên âm dương thủy hỏa, hư thực, hàn nhiệt giống đông y nhưng dưới tên gọi khác là sự thẩm thấu dư hay thiếu của Natri, Kali theo tiêu chuẩn có trong huyết và trong nước tiểu, cùng chất điện giải là tên gọi khác của một loại phản ứng chuyển hóa của âm dương thủy hỏa trong đông y .
Cả hai phương pháp khoa học và cổ điển đều có ưu điểm là chính xác nhưng khuyết điểm là tốn kém tiền bạc thời giờ và mất nhiều máu để thử nghiệm theo tây y, hoặc khuyết điểm của đông y là không có nhiều Thầy thuốc kinh nghiệm bắt mạch giỏi phân biệt được rõ ràng những biến đổi âm dương mất quân bình trong cơ thể qua sự chẩn đoán bằng mạch . Do đó đông y cổ đại đã bổ sung phương pháp chẩn đoán bệnh bằng huyệt, mỗi tên huyệt cũng đã nói lên được chức năng chuyển hóa âm dương, khi bấm vào huyệt cảm thấy đau nhiều là bệnh thực, không đau là bệnh hư .
Riêng những huyệt khám để tìm xem cơ thể mình có dư thừa nước ở tạng phủ nào hay không đều dựa thiêu sự chuyển hoá của Tam tiêu phần thượng tiêu thuộc ngực và bụng trên khám tim phổi, phần trung tiêu thuộc bụng giữa khám tiêu hóa, hấp thụ của bao tử, lá mía, gan, mật, ruột non, phần hạ tiêu thuộc ruột gìa, thận, bang quang, sinh dục . Những huyệt này, chúng ta ai cũng có thể tự khám cho mình được dễ dàng.
clip_image002
1-Huyệt Chiên Trung (huyệt thứ 17 cũa Mạch Nhâm, viết tắt MN.17) :
Huyệt nằm giữa ngực giao điểm của đường nối 2 núm vú ,là huyệt bảo vệ tim, phổi nơi vinh vệ khí đi qua .Vừa là huyệt khám vừa là huyệt chữa những bệnh hư thực làm ra bệnh viêm màng ngực, suyễn khó thở, đau ngực, khí uất, tắc đàm…
Nếu phổi hoặc màng phổi có nước, đặt tay vào huyệt nghe được hơi thở khò khè có bọt nước chuyển động theo hơi thở.
2-Huyệt Cự khuyết (MN.14)
Cự là to lớn, Khuyết là cổng vào, cửa vào to lớn, Tâm khí chảy vào tim qua huyệt này, vị trí ¼ tính từ mỏm xương giao điểm 2 bờ sườn xuống rốn.
Huyệt để khám và chữa, bấm vào bị đau là có bệnh ợ chua đau bụng, nôn mửa, viêm màng ngực, màng ngoài tim, co thắt bao tử.
3-Thượng quản (MN.13)
Huyệt để khám thượng vị, bao tử phía trên, vị trí 5/8 trên đường từ rốn lên giao điểm 2 bờ xương sườn.
Huyệt để khám và chữa, bấm vào đau dưới huyệt có một khối cứng khi đè chạy qua chạy lại, đông y gọi là bôn đồn (heo con chạy do thủy khí từ thận xông lên) tích ở vị, hay phục lương (hòn khối khí hay nước) tích ở tim là có bệnh no hơi, viêm bao tử, đau tim, lá mía, nôn mửa.
4-Huyệt Trung quản (MN.12)
Huyệt khám và chữa bao tử, vị trí trung điểm từ giao điểm 2 bờ sườn đến rốn . Đè vào đau do ăn no, do đầy hơi, không tiêu, nôn mửa, sình bụng, tắc ruộ, huyết áp cao do tiêu hóa kém, đau tim mình lạnh do dư nước không chuyển hóa, dật ẩm (do uống nước bị ứ đọng thành những bọc nước trong bụng trên) khó cúi ngửa.
5-Huyệt Hạ quản (MN.10)
Vị trí ¼ trên đường từ rốn lên giao điểm 2 bờ sườn . Huyệt khám và chữa tích trệ trướng hơi trướng nước, sa xệ trường vị, bụng có chứa nước không chuyển hóa nên không không vào, người gầy ốm…
6-Huyệt Thủy phân (MN.9)
Vị trí 1/8 từ rốn lê giao điểm 2 bờ sườn. Huyệt phân lọc nước đua xuống bàng quang. Bấm vào đau là do nước tích tụ không chuyển hóa làm nôn mửa, cổ trướng, ỉa chảy, viêm thận, phù thủy thủng…
7-Huyệt Âm giao (MN.7)
Vị trí 1/5 từ rốn xuống đỉnh xương mu, nơi các âm kinh giao hội. Bấm vào huyệt đau là nước không chuyển hoá thoát ra ngoài cơ thể làm đau tức bụng dưới, co thắt rút lưng gối, đau lạnh quanh rốn, đau do thoát vị…
8-Huyệt Khí hải (MN.6)
Vị trí 1,5/5 (một đoạn rưỡi trên 5 ) tính từ rốn xuống đỉnh xương mu, còn gọi là Đan điền khí hải ( biển khí).
Bấm vào đau là có bệnh thiếu tắc khí do thoát vị, các loại bệnh âm chứng phong hàn thử thấp, phù thủng, tim ngực phình căng, các lại bướu trong bụng .
Còn rất nhiều huyệt để khám tìm và xác định bệnh nước không chuyển hoá dù uống nhiều hay ít, thuộc bệnh lý đối với cơ thể mỗi người khác nhau . Chúng ta nhận thấy bấm các huyệt trên đều thấy có những túi nước nhỏ tích chứa trong bụng thuộc thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu .Do đó chúng ta không cần biết chính xác vị trí huyệt để chữa, vì chữa ngay trên huyệt đó là chữa ngọn, còn phải phối hợp huyệt để chữa gốc nguyên nhân gây ra bệnh , và chữa ngừa biến chứng. Chúng ta chỉ cần vuốt bụng đè ấn xuống sâu 1cm vuốt từ mỏm xương ức xuống Khí hải bụng dưới, cảm thấy đau, nghe tiếng nước chảy từ gan, dưới tim, màng ngực, bên cạnh sườn bao tử, lá mía, ruột và có những khối u nhỏ di chuyển không tan , chứng tỏ cơ thể chúng ta bị tích trệ không chuyển hóa nước, nếu không biết cứ tiếp tục uống nước theo thói quen của khoa học chúng ta sẽ bị bệnh năng hơn như trường hợp dưới đây mà tôi đã chứng kiến không chữa được đi đến tử vong , bài trước kia đã được đăng lên diễn đàn với tựa đề : Những tai hại của bệnh uống nhiều nước. Những điều mình biết qua kinh nghiệm mà không nói ra cho mọi người biết để phòng ngừa khiến cho lương tâm thầy thuốc áy náy vô cùng. Đã có một vị thiền sư nói : Chúng sinh không muốn hết bệnh , ngài nói là do thiếu sáng suốt, tâm không cởi mở, cố chấp ở sở tri kiến, si mê, vọng cầu ở những phương pháp cầu kỳ mà không tin vào những gì đơn giản. Do đó tôi xin mạn phép diễn đàn đăng lại bài Những tai hại của bệnh uống nhiều nước mà trước kia mọi người cho rằng bài viết này không có cơ sở của đông tây y.
Những tai hại của bệnh uống nhiều nước
Tất cả các bệnh đều do sự tuần hoàn khí huyết không bình thường như :
a- Khí huyết dư thừa làm ra các bệnh thực chứng đau tại một nơi nào đó .
b- Khí huyết thiếu không đủ tuần hoàn đi khắp cơ thể tại một nơi nào đó làm ra bệnh hư chứng.
c- Khí huyết bị tắc kẹt không thông làm tụ lại một chỗ làm sưng đau hay bướu…
Thí dụ khi chúng ta bị đau hông bên phải mà đi khám tây y không tìm ra được bệnh gì, kết quả thử nghiệm cái gì cũng tốt, kết luận là khoẻ mạnh không bệnh tật, nhưng thỉnh thoảng đau, chúng ta phải nghĩ ngay đến gan có bướu nước do tích chứa nước bên trong thỉnh thoảng bị nghẹt không lưu thông, nguyên nhân do uống nhiều nước dư thừa không chuyển hóa, tây y gọi là ngộ độc nước, có nghĩa là uống nhiều nước theo tây y để lọc máu, giải độc, thay vì uống 2 lít nước sạch để giải độc máu thì đi tiểu ra cũng phải 2 lít nước bẩn, và trọng lượng cơ thể không tăng mới đúng. Nhưng nhiều người không để ý uống nước vào 2 lít, đi tiểu ra 1,8 lít, còn giữ lại trong người 0,2 lít nước bẩn mỗi ngày, bị hệ thống miễn nhiễm trong cơ thể cô lập bằng một lớp mỡ tam tiêu bao bọc bên ngoài để không cho bướu nước độc thấm vào máu mới hình thành bướu lành. Khi những người uống nhiều nước mà thấy lên cân không phải do ăn nhiều là đã uống dư thừa nước làm thành bệnh, nhất là mấý phụ nữ tây phương, họ thường hỏi tôi là : sao tôi ăn rất ít (diet) mà cứ mập ra nhưng bệnh chứ không khỏe, áp huyết cao, mệt tim, khó thở… Đó là hậu qủa của uống nhiều nước bị ngộ độc nước tạo ra nhiều khối u bướu lành trong cơ thể. Khi những bướu này nhiều liên kết tập hợp lại với nhau phát triển to ra có thể đè vào các cơ quan tạng phủ như gan, mật, lá lách, thận, bọng đái, ruột…làm bí tiểu, bí ỉa, gan lách sưng. Tây y sẽ chữa loại bệnh này như một loại cancer phải trị liệu bằng chemotherapy .

Có một trường hợp một bệnh nhân có các khối nước bẩn này kết khối trưóc bụng trên sờ tay vào như một con rùa nằm trong bụng đè vào gan, lách, thận, thấy khó thở, nhưng vẫn khỏe mạnh, tự đi vào nhà thương khám, bác sĩ cho nhập viện, bác sĩ ban đầu cho thuốc tấn công vào cancer gan nhưng khi chụp hình khối u vẫn phát triển, lại nghi là cancer tuyến thượng thận cho thuốc tấn công vào tuyến thượng thận nhưng cũng không phải, và khối u cứ lớn ra do độc tố bị giữ lại trong khối nước độc, qúa to đè vào bàng quang chặn lỗ tiểu, bị bí tiểu , dùng lasix mỗi ngày mà nước tiểu cũng không ra, trong khi đang truyền sérium và thức ăn bằng đường bụng nên bụng càng trương cứng . Bác sĩ dự trù tấn công cancer 24 lần chemotherapy, lần thứ 12 bệnh nhân hôn mê, toàn thân mặt, bụng, chân tay sưng to phù nước, các bác sĩ điều trị giải thích cho người nhà là đã dùng những trụ sinh mạnh để tấn công cancer nhưng không thể nào thuốc vào được khối u vì không có đường máu nào dẫn thuốc đến được, chung quanh là mỡ bao khối u không dính vào cơ quan tạng phủ nào, nếu có cách nào làm cho khối u nhỏ lại là thành công, người nhà đề nghị mổ lấy khối u ra .Các bác sĩ hội chẩn và cho biết khối u qúa lớn không mổ, dù có mổ cũng không sống được vì tế bào gan thận đã bị chemotherapy làm hư hoại hoàn toàn.
Có thể bệnh nhân này trước sau gì cũng chết nên đã trở thành bệnh nhân để thí nghiệm nên vẫn tiếp tục điều trị chemotherapy xem liều tối đa mà bệnh nhân có thể chịu đựng được là bao nhiêu lần, khi đến liều thứ 18 áp huyết bệnh nhân tụt thấp dần xuống còn 70/45mmHg, người thoi thóp, chân tay lạnh, mặt tím dần, cuối cùng đành phải rút ống thở vĩnh biệt thế gian trong độ tuổi xuân mà trước đó 3 tháng vẫn khỏe mạnh đi làm đi chơi rất bình thường không bệnh tật. Môt cái chết oan uổng vì tây y chưa rõ bướu này thuộc loại cancer nào trong nội tạng, nhưng tấn công bướu thì cứ tấn công chỉ biết rằng khó chữa vì không có đường dẫn thuốc đến bưóu và loại cancer này chưa có sách vở tài liệu nào nói đến.
Ở đây tôi muốn nói đến hậu qủa của thói quen uống nhiều nước mà không biết cơ thể có hấp thụ và chuyển hóa được hay không. Qúy vị nên tự kiểm soát, nằm ngửa, dùng ngón tay vuốt đè từ mỏm xương ức xuống đến rốn, khi vuốt đè thì thở ra cho bụng mền lại, mới đầu vuốt thì không nghe có cảm giác gì nhưng vuốt đến hàng trăm lần sẽ nghe được tiếng nước chảy từ hông sườn trái ở lá mía, ở bao tử, và hông sườn phải ở lá gan và ở dưới đáy tim và ờ màng phổi dưới tim nước chảy xuống bụng dưới theo đường vuốt, và có những người vuốt cảm thấy đau khi ngón tay đi qua những khối u nhỏ là những túi nước bị màng mỡ tam tiêu ở bụng bao lại, có người có 1-2 cục, có người có mười mấy cục to cứng rải rác tử bụng trên xuống đến hai bên rốn nằm ngoài ruột, tây y đã cho là cancer, và những bệnh nhân này từ chối không điều trị chemotherapy mà đi tập khí công, và họ vuốt như vậy mỗi ngày bướu nước được dồn xuống thấm vào bàng quang để chuyển hóa theo nước từ ruột già thấm vào bàng quang trôi theo đường tiểu . Những bướu nước lớn làm ảnh hưởng áp huyết cao và nhịp tim đập nhanh, sau khi vuốt áp huyết ổn định, tim đập chậm lại bình thường, ăn uống được chuyển hóa tốt và đã khỏi bệnh, một loại bệnh không tên do hậu quả của thói quen uống nhiều nước không chuyển hoá.
Qúy vị nên thường xuyên tập bài Nạp khí trung tiêu sẽ làm tiêu những bướu nước tích tụ trong nội tạng và các bướu nước trong ổ bụng do màng mỡ tam tiêu bao lại, sau đó tập Tĩnh công thiền để tăng cường hệ miễn nhiễm phòng chống bệnh tật.

doducngoc




































































































































































Dấu hiệu bệnh thiếu oxy không cứu được

Có nhiều bệnh nhân bệnh viện từ chối chuyển cho CLSC săn sóc tại nhà, cung cấp cho bình thở oxy, nhưng càng ngày càng suy nhược vì không để ý đến tình trạng thiếu oxy trong cơ thể do không hấp thụ được.

Muốn biết tình trạng oxy trong cơ thể đủ hay thiếu, các bác sĩ và nhân viên điều dưỡng dùng máy Oxymeter gắn máy đo vào đầu ngón tay bệnh nhân, trên máy sẽ hiện ra 2 con số, số bên trái ghi SpO2 là lượng oxy mà cơ thể đang có, số bên phải chỉ nhịp tim.

Nhưng theo kinh nghiệm của khí công, trên ngón tay, mỗi ngón chỉ một đường kinh, nếu dùng máy đo oxymeter gắn trên đầu ngón tay, mỗi ngón sẽ có một số khác nhau tùy theo tình trạng cơ quan tạng phủ bị bệnh mà oxy trong mỗi đường kinh của tạng phủ ấy sẽ khác nhau.

Máy có 2 sợi dây :Một sợi dây kẹp vào đầu ngón tay giữa để biết tình trạng oxy tổng quát đủ hay thiếu, khác với tây y, khí công đo oxy đủ 10 đầu ngón tay và 10 đầu ngón chân để biết kinh nào mạnh kinh nào yếu. Một sợi dây thứ hai, tây y ít dùng tới, không có đầu kẹp, mà có một điểm gắn trên giữa trán để đo não xem máu có lên đầu đủ hay không, khí công dùng nó để đo trên các huyệt quan trọng của cơ thể, để điều chỉnh lại sự khí hóa tốt xấu dựa theo con số báo hiệu oxy trên máy.
clip_image002 clip_image004 clip_image006
clip_image008 clip_image010 clip_image012
Chúng ta để ý khi vào bệnh viện thăm người thân khi phải dùng máy trợ thở bằng oxy sẽ nghe tiếng thở có sự khác biệt như sau :

1-Những người bệnh suyễn thiếu oxy sẽ thở dễ và hơi thở êm không nghe có tiếng xì ở đầu mũi, vì chính phổi thiếu oxy.Nếu thử bằng máy oxymeter có sự khác biệt trước và sau khi cho trợ thở oxy (thí dụ từ 85 lên 96)

2-Có người thiếu oxy nhưng khi dùng máy trợ thở nghe có tiếng xì đẩy ra vì họ bị ngộp hoặc suyễn thở ra nhiều thở vào ít, số oxy vào nhiều hơn họ sẽ bị ngộp, giống như chúng ta đang đứng trước một quạt gió cực mạnh thổi ngay vào mũi khiến chúng ta bị ngộp không thở được, sự khác biệt của số đo oxy không nhiều (thí dụ từ 85-90)

3-Có những người bị thiếu oxy cho tim nhưng phổi mạnh, cho nên số oxy đưa vào cơ thể vẫn không chuyển vào cho tim.

4-Có những người thận thiếu oxy, cơ thể suy nhược dần mặc dù có cho trợ thở oxy từ ngày này sang ngày khác nhưng dùng máy oxymeter kiểm lại thấy mức oxy trong cơ thể càng ngày càng xuống thấp cho đến khi bị hôn trầm lịm đi vào giấc ngủ sâu hồn lìa khỏi xác, mặc dù vẫn tiếp thức ăn vào đường bụng đều đặn.Chứng tỏ phổi không dung nạp oxy.
Nhất là những người sau khi bị tai biến mạch máu não dẫn đến tê liệt một phần thân thể, chúng ta cũng vẫn có thể đo được sự khác biệt ở bộ não, ở 2 tay, 2 chân có sự khác biệt về oxy và nhịp mạch đập, ngay cả đo bằng máy đo áp huyết cũng có sự khác biệt.

Có một lần tôi thăm một người bạn bị chấn thương sọ não nằm phòng hồi sức săn sóc đặc biệt, tê liệt một bên tay chân trái. Có 2 bác sĩ điều trị đang kiểm tra sự phản xạ gân cơ của tay phải, họ gật đầu bảo tốt, bên tay liệt không có phản xạ, họ lắc đầu chán nản. Tôi xin phép đem máy đo oxymeter thử bên liệt, máy không hiện số, tôi day các đầu ngón tay, số hiện lên rất ít, tôi nói tay này thiếu oxy, bác sẽ bảo : Không thể nào. Ông đem máy của tôi sang đo bên tay phải, các số hiện lên đúng tiêu chuẩn. Tôi trả lời : Đó là bác sĩ đo tay khỏe, còn tay yếu vì không có đủ oxy tuần hoàn nên số đo mới khác biệt. Họ lấy làm ngạc nhiên vì chưa từng thử như thế bao giờ.. Chính những sai biệt các con số trên máy đo oxymeter và trên máy đo áp huyết ở tay chân mỗi chỗ mỗi khác khi cơ thể có bệnh mà tây y không ngờ tới.
Chính nhờ những dụng cụ tân tiến của y khoa, tôi đã điều chỉnh áp huyết, điều chỉnh oxy trên các đường kinh tay chân của người bạn nên anh ấy đã trở lại trạng thái khỏe mạnh đi đứng ăn nói bình thường như mọi người.
Tuy nhiên, khi máy đo oxymeter đo cả 3 đường kinh Phế, Tâm. Thận cả 2 bên chức năng và cơ sở, máy chỉ dưới 85 là bệnh nhân đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, khó cứu được mạng sống. Cho nên mới đây một người bạn nhờ đến cứu cho một người em đang nguy kịch được CLSC săn sóc tại nhà với bình trợ thở oxy. Tôi đo oxy trên 3 đường kinh Phế, Tâm, Thận trái phải, các con số hiện ra  ở mức 60, chúng tôi đành ngậm ngùi vĩnh biệt, anh ấy đi dần vào hôn mê và tắt hơi thở  sau 2 tiếng đồng hồ.
clip_image014 clip_image016
clip_image018 clip_image020







clip_image022

Máy đo này chỉ bán cho các bác sĩ, nếu bán ra cho những người có bệnh nặng để người nhà theo dõi tình trạng oxy, may ra cũng có thể báo cho các bác sĩ điều trị đến cấp cứu kịp thời trong những trường hợp thập tử nhất sinh như trên để tránh những rủi ro đáng tiếc xảy ra.




Nhờ Máy Đo Oximeter đã cứu sống một bé gái 2 tuổi bị hôn mê trong phòng cấp cứu

Đây là câu chuyện kể kinh nghiệm của một thầy lang khí công,vì không nằm trong y học chính thống của cả đông y lẫn tây y, nhưng để qúy vị biết cách đề phòng trong những trường hợp tương tự :

Khoảng 3 giờ chiều thứ ba, phòng hướng dẫn tự chữa bệnh bằng khí công của tôi đang đông khách, cửa phòng đóng, bên ngoài khách đang ngồi đợi .Tự nhiên có tiếng gõ cửa gấp, tôi ra mở, thấy một cặp vợ chồng người Việt khoảng 50 tuổi, vẻ mặt nghiêm trọng, năn nỉ tôi đến bệnh viện gấp để cứu cho cháu bé gái 2 tuổi của bà đã bị hôn mê hơn 1 tuần. Tôi hỏi tại sao : Bà trả lời cháu bị động kinh co giật cứng người, sốt cao, bác sĩ trưởng khoa não đã bó tay, lấy máu mỗi ngày nhiều lần để thử mà không thấy vi trùng virus gì, không tìm ra bệnh, chỉ kết luận là não thiếu oxy nên đã hết hy vọng.

Tôi nói rằng bệnh viện đang chữa mà tôi vào chữa cho trẻ em trong phòng cấp cứu như thế là không được phép, bà phải xin phép các bác sĩ có cho phép tôi được vào làm massage cho cháu không, nếu được thì ngày mai tôi sẽ đến.

Tôi nói như vậy để khỏi phạm luật, nhưng thật ra, tôi nghĩ con người ta sống chết có số, nếu số cháu còn sống thì ngày mai có thể gặp được tôi, nếu số cháu đã hết thì mai cháu sẽ không gặp tôi được, nên câu nói cuối cùng để an ủi hai vợ chồng trước khi ra về là : Sống chết có số mạng, cứ tùy duyên, không sao đâu, đừng lo, mai đến đón tôi…

Đối với môn Đông Y Khí Công, trong trường hợp con người bị bệnh, mà cơ thể vật chất (physic) không tìm ra bệnh, theo y học hiện đại thì còn 2 cơ thể nữa là cơ thể năng lượng bị thiếu như khí ( oxy), khí lực (energie), huyết (B12), chất đường glucose, Thiamine, cocarboxylase…, và cơ thể thứ ba thuộc tâm linh.  Nhưng theo khí công, về tâm linh, con người có 7 thể là thể xác, thể phách (là hơi thở nằm ở phổi), thể vía (là năng lượng giúp cơ thể cử động, ăn nói, đi đứng), thể hồn, thể thần, thể ý, thể hạ trí… những người tu thiền cao có thêm thể thượng trí là kiến thức hiểu biết uyên bác như các nhà bác học, các nhà khoa học nghiên cứu mà người khác không có, không thể so sánh tranh luận, chỉ có thể học lại của các vị này mà thôi. Trong dân gian không biết rành thứ lớp của các thể cư trú trong con người, nên thường nói con người có 3 hồn 7 vía cũng đúng trong lãnh vực chữa bệnh nữa, vì có 3 hồn nên các nhà thôi miên đã điều khiển được phần hồn này để khai thác tiềm thức trong qúa khứ của một người. Nói theo Tạng thư Tây Tạng, khi con người nằm ngủ thì có 1 hồn ở lại giữ xác, một hồn gọi là du hồn đi chu du khắp thế giới gọi là nằm mơ thăm người nọ người kia, nếu là người tu thiền thì sẽ đi học thêm kiến thức trong cõi trung giới, giống như Tổ Mã Minh, Thiên Thân, Vô Trứ của Phật giáo, các ngài thiền xuất hồn lên cung trời Đâu Suất học đạo với  Đức Phật Di Lặc, từ đó Phật giáo mới có kinh sách Đại Thừa, còn các nhà bác học nghiên cứu đi vào cõi khoa học cao siêu hơn (thí dụ như trong phim giả tưởng Startrek) mới sáng chế ra nhiều điếu mới lạ, còn hồn thứ ba là liên lạc viên, tây tạng gọi là sợi dây bạc vô hình trong não con người, ví như hồn thứ nhất là người chơi diều, hồn thứ hai là con diều, hồn thứ ba là dây diều, khi con diều gặp gió bay cao qúa, dây diều đứt, bỏ lại người chơi diều một mình ngơ ngẩn, vì thế có những người ngủ say qúa cháy nhà không hay biết nên bị chết . Theo Đạo Phật, hồn rất linh khôn, khi con người sinh ra, khóc oe oe là mới có xác, phách và viá, khi cơ thể khỏe mạnh hồn mới nhập vào, nhưng khi cơ thể bệnh nặng, du hồn xuất ra khỏi xác trước, nó không chịu khổ sở đau đớn, chỉ để lại một hồn giữ xác, khi nào hồn liên lạc thấy cơ thể khỏe mạnh thì nó kéo du hồn về, còn không nó kéo hồn giữ xác đi theo du hồn lúc đó bệnh nhân chết.

Tôi đã từng cứu những người hôn mê tây y gọi là não chết, buổi chiều tối gia đình bệnh nhân họp bàn mời tôi đến cứu, người vợ không chịu vì cho rằng tây y không chữa được vì não chết rồi, mà thầy ở xa xôi, đi máy bay đến cũng trể rồi, trưa mai nhà thương rút ống trợ thở…Đêm du hồn bệnh nhân về báo cho vợ biết lúc 4 giờ sáng, cô vợ kể lại nguyên văn : Anh chưa muốn chết, em phải mời Thầy Ngọc cứu anh. Do đó người nhà gọi điện thoại cầu cứu và mua vé cho tôi đi chuyến sớm nhất 10 giờ sáng, 12 giờ đến nơi, người nhà khóc lóc nói Thầy ơi, họ sắp rút ống rồi. Tôi nói không có sao, bình tĩnh, tôi vào xem đã. Sau 15 phút tiếp năng lượng, bấm huyệt tỉnh não tỉnh hồn, tôi gọi tên bệnh nhân và nói : Mở mắt ra . Đông y nói Hồn khai khiếu ở mắt, văn chương tây phương nói mắt là cửa sổ của linh hồn. Do đó sau khi gọi thì du hồn vể nhập vào xác và mở mắt : Những người thân đứng xung quanh la lên vui mừng : Sống rồi, tỉnh rồi.

Một bệnh nhân khác của tôi kể rằng, em bị chết đi sống lại. Khi vào nhà thương em không biết, chỉ biết em đi ra khỏi nhà lạc vào khu vườn hoa đẹp lắm có nhiều mùi thơm của các loài hoa, tự nhiên em thấy có một bông hoa lạ lớn rất xinh không biết là hoa gì, em nhìn sang bên trái xa xa có một bông hoa nữa, rồi xa xa bên phải lại có nữa, càng xa càng nhiều hoa lạ khiến em đi mãi. Bỗng nhiên em nghe có tiếng gọi tên em, gọi mãi gọi mãi, tiếng gọi càng lớn, em quay đầu lại kiếm tìm xem ai gọi, khi em mở mắt ra thấy mình đang nằm trên giường trong bệnh viện, và cô y tá tây đang áp sát miệng vào tai gọi tên em. Em tỉnh lại và mừng qúa, vì chính nhờ cô y tá gọi em mới sống lại, cảnh vườn hoa mà em thấy là lúc em đang hôn mê là lúc hồn lìa khỏi xác…

Một trường hợp khác, một bà tây bị xe đụng hôn mê, bác sĩ đã mổ não và lấy ra nửa hộp xương sọ rồi khâu da đầu lại, bà vẫn hôn mê hơn 10 ngày chưa tỉnh, các bác sĩ quyết định rút ống thở. Chồng bà mời tôi đến, tôi trả lời tôi rất muốn giúp ông, nhưng ngại vì những người thân trong gia đình không tin vào phương pháp của tôi, sẽ gây phiền phức về pháp lý. Ông nói, gia đình ông chia hai phe, một phe theo tây y tin rằng tây y không chữa được thì còn phương pháp nào hay hơn nữa, nên không đồng ý. Phe thứ hai chỉ có ông và các người bạn ông từng là những bệnh nhân của tôi, và ông mới chính là người đau khổ khi vợ ông mất. Hai phe tranh cãi và cuối cùng nhờ đến một bà tiên tri xem tình trạng vợ của ông có thể sống lại được hay không. Bà tiên tri cho biết 3 điều : Bà thấy  linh ảnh một tai nạn xe hơi mà vợ ông là nạn nhân, xảy ra lúc 8 giờ sáng ở một góc đường. Nghe âm thanh có người gọi tên nạn nhân là Olette. Hai điều này đúng hoàn toàn. Điều thứ ba, hồn nạn nhân đang đứng cạnh giường, nạn nhân chưa muốn chết, nhưng nếu không có ai chữa khỏi, hoặc chữa khỏi mà cơ thể tàn tật thì bà mới đành bỏ xác ra đi, nếu chữa lành không tàn tật thì hồn mới nhập vào. Vì lời tiên tri này mà cả hai phe đồng ý mời tôi. Khi tôi đến bệnh viên thủ tục đầu tiên là gia đình phải xin phép bác sĩ phụ trách có cho làm massage không. Khi bác sĩ đồng ý, tôi để tay vào huyệt Nhân trung truyền năng lượng, các con số trên đồ biểu thay đổi tốt, tôi gọi Olette, mở mắt ra. Bà mở mắt ra tỉnh lại ngay và dùng tay gạt tay tôi ra khi tôi còn đang bấm huyệt, tôi bấm huyệt Chí âm ở chân, bà lấy chân đạp tôi ra. Bà tỉnh và khỏe mạnh hoàn toàn. Tôi đề nghị chồng bà cho bà đội nón an toàn và cho bà đeo găng tay loại găng đánh boxe để tay bà không chạm vào sọ não.

Ngày hôm sau tôi đến, bác sĩ mổ não đề nghị cho đứng quan sát xem cách chữa, để quyết định sẽ gắn trở lại cho bà nửa hộp sọ. Bây giờ bà là người hoàn toàn khỏe mạnh.
Trong ngành đông y châm cứu, các vị tiền bối cũng biết những cấu trúc tâm linh của 7 thể nằm trong con người, nên đã đặt tên huyệt là Phách hộ, huyệt giữ phách, huyệt Hồn môn, Thần môn, Nội quan, Nhân trung, 13 qủy huyệt để cứu người.

Đối với bé gái 2 tuổi này lại khó hơn vì không thể châm kim, chích lể hay bấm huyệt mà chỉ có thể làm được hai điều, tăng năng lượng cho cơ thể, tiếp xúc được với cơ thể tâm linh gọi du hồn về . Do đó thông thường trước khi tôi ngủ, đều nằm thở tĩnh công thiền cho du hồn đi học hỏi hoặc tìm kiếm được những giải đáp nghi vấn khúc mắc mà tôi gặp phải. Khi ở lớp dạy khí công thiền, tập mở con mắt thứ ba sẽ có 4 dấu hiệu kiểm chứng sự tiến bộ của học viên : Hít vào thở ra ở huyệt Ấn đường để khai mở con mắt thứ 3, tập đều đặn lâu năm sẽ có được 1 trong 4 hiện tương như : Cảm nhận được khí ra vào nơi Ấn đường  (để bàn tay trước huyệt cảm thấy mát hay nóng ấm khi thở ra), ngửi được mùi thơm của hoa lạ, mà những người khác chung quanh không ngửi được, có mầu sắc khi thở ra hít vào tùy trình độ và tình trạng cơ thể bệnh, từ mầu xấu nhất  đến mầu tốt nhất như đen, đỏ, cam, vàng, xanh, lam, chàm, tím, trắng, và hiện tượng hay nhất mà các nhà yoga Ấn độ gọi là linh ảnh.
Đạo Phật giải thích thiền một cách đơn giản là tập trung suy nghĩ vào một việc gì đó từ ngày này sang ngày khác, quên ăn quên ngủ sẽ tìm ra giải đáp, điều này đúng với các nhà khoa học nghiên cứu, vì vấn đề suy nghĩ đi vào trong giấc ngủ, du hồn đem ý đó theo để tìm học, tự nhiên một ngày nào đó một linh ảnh xuất hiện rõ như ban ngày ngay trước mắt Ấn đường một biểu đồ cấu trúc mạch điện chẳng hạn, và mình cứ theo đó thực hiện đem lại thành công, người đời sẽ gọi mình là nhà bác học. Linh ảnh của tôi thường thấy là cấu trúc cơ thể bệnh nhân, thấy được nguyên nhân, hậu qủa, cách chữa trong những trường hợp đặc biệt cần thiết, cho nên nhiều người cho rằng cách chữa không có cơ sở khoa học, không đúng kiến thức đông tây y.
Ngày hôm sau tôi vào bệnh viện, nhìn mặt cháu gái xinh, mặt đỏ bầm. trán nóng sốt cao, 4 ống dây thọc vào mũi miệng, 2 tay cột vào giường cho khỏi giật, chân co giật liên tục, bụng căng trướng làm tức thở, đông y có một câu ít ai để ý vì ít khi gặp phải : Bệnh co thắt ruột non làm quặn đau, phải co chân gối lên mới đỡ đau.

Tôi dùng máy đo Oxymeter đo khí huyết trên đầu, qủa thật não thiếu oxy, khí huyết không lên đầu, tôi đặt tay vào huyệt Nhân trung để tăng cường oxy cho não, 5 phút sau oxy vào não, máy đo chỉ SpO2 là 96, đo oxy trong tim ở hai bên má huyệt Hạ quan cũng thiếu oxy, điều chỉnh ngón tay tam tiêu, oxy vào tim đo được 94, đo oxy trong phổi ở huyêt Vân môn là 96, đo oxy ở trung tiêu máy không chỉ chứng tỏ trung tiêu tắc, vị khí thực, tôi vuốt bụng cảm nhận ở huyệt Thiên xu cứng quặn đau, đụng đến huyệt này áp huyết tăng cao. Trên bảng biểu đồ có 4 hàng, hàng thứ nhất chỉ nhịp tim 160, khi cơn đau co thắt chân tay giựt kinh phong, số này lên đế 180 mặt tím bầm, hàng thứ hai chỉ áp huyết 128/74mmHg là áp huyết cao đối với trẻ em, trung bình từ 95-105/60mmHg, có khi cơn đau co giật áp huyết lên 170/110 rất nguy hiểm, hàng thứ ba chỉ nhịp thở 40, hàng thứ tư chỉ lượng oxy đang thở 100.

Ngày nào cháu bé cũng bị lấy máu để xét nghiệm, thử điện não đồ, chụp não, chích thuốc mà các con số trên biểu đồ không thay đổi, cháu bé vẫn hôn mê, sốt cao, mà không tìm ra bệnh, bác sĩ chuyên khoa sọ não chụp đầu cho biết não thiếu oxy không chữa được, khuyên người nhà tự lo liệu .
Qua kinh nghiệm của đông y khí công, cháu bé bị tắc tiêu hóa, bụng đầy trướng, tôi đè tay vào Trung quản, một tay nắm chân trái em bé đẩy lên bụng như tập kéo đầu gối theo nhịp hát one, two, three.. tôi hát khẽ cho cháu nghe để gọi phần du hồn về, mỗi lần làm như vậy cháu lại xì hơi ra hậu môn, bụng nhỏ lại, bớt căng, và các con số trên biểu đồ hạ thấp, sắc mặt cháu dịu lại, nhịp tim xuống 120 ,áp huyết xuống 115/65, nhịp thở 20, oxy 100. Tôi gọi tên cháu:  Elizabeth, mở mắt ra, có ông đến thăm cháu này. Cháu mở mắt.

Sau một đêm, các bác sĩ ngạc nhiên, không hiểu có phép lạ nào đã làm cho cháu tỉnh, bác sĩ lại chụp não, chạy điện não đồ thấy có biến đổi tốt. Cháu được đổi sang phòng hồi sức.

Người nhà lấy làm lạ, hỏi tôi tại sao cháu lại bị như vậy mà bác sĩ không tìm ra. Tôi nói, khi cháu bị đông kinh co giật, tây y nghĩ ngay đến thần kinh và bộ não, đối với tây y đó là gốc bệnh ở thần kinh, nhưng đối với đông y, nguyên nhân gốc bệnh là ở tiêu hóa, co giật là hậu qủa. Tôi khám biết cháu bị co thắt ruột non do ăn nhiều qúa không tiêu, cả nhà có để ý một tuần qua cháu không có đi cầu nên bị bón làm sốt cao, tăng áp huyết. Nhất là trẻ nhỏ khi sinh ra bị xoắn ruột, khi ăn nhiều hay có tình trạng này, nhất là kỵ thức ăn có đường lên men, có ga, có tính nhiệt như nhãn, xoài, chôm chôm, sầu riêng… là cháu sẽ bị đầy tức bụng, lên cơn sốt làm kinh. Cha me cháu giật mình, vì trước khi vào nhà thương cháu có ăn 1 tô nhãn.
Người chồng 49 tuổi, vợ 43 tuổi mới có một cháu bé duy nhất 2 tuổi nên cưng chiều, muốn ăn gì cho ăn nấy tha hồ muốn ăn bao nhiêu thì ăn nên mới xảy ra cớ sự. Tôi đề nghị cha mẹ cháu 2 việc : ngày nào cũng tự cứu cháu bé bằng cách tập thể dục phần bụng cho tiêu hóa tốt, bao giờ cháu đi cầu được thì thôi, và hướng dẫn cách trị liệu phần bụng cho cháu bé bằng cách nói cho bác sĩ biết cháu bị co giật lần này là lần thứ ba, hai lần trước co giựt sốt nhẹ, do ăn nhiều không tiêu, nhưng lần thức ba này nặng hơn. Sau đo bác sĩ cho chụp bụng nói bụng tốt, chỉ công nhân bụng đầy hơi . Rõ ràng nếu ruột bị tổn thương tây y mới thấy còn đầy hơi thuộc khí tây y xét nghiệm không thấy, thôi thì người nhà phải tự chữa trị xoa bụng bấm huyệt theo phương pháp cổ điển của dân gian vậy. Cha mẹ cháu nói với tôi khi cháu khỏe được xuất viện, cháu sẽ đến ông để nhờ ông chữa cho cháu khỏi hẳn bệnh co thắt đường ruột vậy.

Tôi viết bài này mong giúp được những bậc làm cha mẹ có kinh nghiệm để đề phòng cho con cháu tránh được những hậu qủa sai lầm trong chẩn trị gây nguy hiểm đến tính mạng.

Phương pháp cấp cứu người thân bị Coma trong bệnh viện

Mời qúy vị theo dõi băng hướng dẫn phương pháp cấp cứu ở link dưới đây :
http://www.youtube.com/watch?=m0O9JxOdXh0
Mục đích Hội Khí Công Y Đạo truyền bá phương pháp này là để cứu tỉnh người thân bị hôn mê bất tỉnh (coma) trong bệnh viện do tai biến mạch máu não để ai  cũng có thể làm được, nhưng để tránh rắc rối về pháp lý, chính người nhà phải tự học tự làm để tự cứu người thân khi các bác sĩ tây y đã bó tay đòi rút ống thở, vì đã kết luận là não chết..


Hình ảnh trên video là bài giảng trong lớp học khí công y đạo, một học viên đóng vai bệnh nhân bị hôn mê, những học viên khác đang ghi chép theo dõi cách chữa theo phương pháp khí công đã thành công trong nhiều trường hợp, trong đó có một người ngoại quốc đang cần phương pháp này để vào bệnh viện cứu thân nhân bị coma mà các bác sĩ tây y đã bó tay với lý do não đã chết, đòi rút ống thở. Sau bài giảng này, ông ta đã áp dụng cứu khỏi bệnh cho người thân, hiên nay bà bệnh nhân này đã hồi phục.

Có 5 việc phải làm theo thứ tự :
Nhìn xem bệnh nhân có phản ứng khi bấm huyệt không. Nguyên tắc của khí công, khi đụng vào 1 huyệt, khí huyết trong người sẽ biến chuyển tạo ra phản ứng làm bệnh nhân nhăn mặt, phản ứng co giật.
Những động tác phải làm như sau :

1-Trước hết thử xem cứu được không bằng cách bấm huyệt Chí âm (góc móng ngón chân út bên trái trước, bên phải sau). Phản ứng của bệnh nhân có những dấu hiệu sau đây cho biết tình trạng nhẹ hay nặng :

a-Chỉ co giật một bên chân trái khi bị bấm vào huyệt Chí Âm, bên chân kia không nhúc nhích, chứng tỏ thần kinh nửa bộ đầu phải bị nghẽn tắc do máu bầm tụ khối.

b-Nếu bấm huyệt Chí Âm chân út trái thật mạnh mà chân phải nhúc nhích là nửa não phải còn tốt.

c-Bấm ngược lại, huyệt Chí âm bên ngón chân út phải, chỉ nhúc nhích bên chân phải mà không nhúc nhích bên chân trái là do nửa đầu não trái bị bầm huyết, thần kinh không dẫn truyền xuống chân phải được. Vì huyệt Chí âm thuộc kinh Bàng Quang là vệ khí chạy từ chân lên đầu truyền sang chân bên kia, đường đi của kinh không dẫn truyền hết đường kinh chứng tỏ trên đoạn dẫn truyền bị tắc ở bộ đầu do áp lực khí huyết tụ ở bộ đầu, lúc đó áp huyết nhìn trên biểu đồ rất cao, sờ trán bệnh nhân nóng, mặt sưng tím hay đỏ bầm..Lúc đó cần phải dùng kim châm tiểu đường châm vào đầu ngón chân út để nặn ra máu bầm, làm hạ áp lực máu trên đầu có lỗ thông áp lực khí thoát ra chân ngón út, châm nặn máu cả 2 ngón chân út lúc đó máu trên đầu sẽ trào ra đường ống ở mũi miệng, phải làm mỗi ngày 2-3 lần từ ngày thí nhất đến ngày thứ 2,3,4 cho đến khi không thấy ra máu bầm mà ra máu tươi hơn rồi ngưng không ra máu nữa là bệnh nhân sẽ tỉnh, các thông số trên biểu đồ thay đổi càng ngày càng tốt hơn, yêu cầu bệnh viện chụp lại não, mọi người sẽ ngạc nhiên, máu bầm trong não đã biến mất, não đã sống lại, nhưng các chức năng của các trung khu thần kinh còn bị tổn thương chưa hồi phục như trung khu nói, nghe, hiểu, vận động….

2-Khi đã có dấu hiệu sự sống, cần phải thông tim ở ngón tay út bên tay trái trước, ngón tay út bên phải sau . Khi day bấm mạnh, tay bệnh nhân nhúc nhích cử động, mặt nhăn, mặt đỏ hồng, là chức năng của tim đã hoạt động. Trong trường hợp áp huyết còn cao và sốt, trán nóng, cần phải châm nặn máu các đầu ngón tay cho áp huyết và thân nhiệt xuống bình thường.

3-Làm tan máu bầm, vuốt huyệt Thái khê và Chiếu hải từ dưới lên trên 9 lần, thông khí để đẩy huyết, Thái khê và Chiếu hải nằm trên đường kinh thận, chức năng phục hồi trí nhớ . Sau đó vê 10 đầu ngón tay, ngón chân để làm sống 12 đường kinh mạch, để ý xem ngón nào có phản ứng, ngón nào không có phản ứng, nếu những ngón chưa có phản ứng là đường kinh của ngón đó chưa được phục hồi, theo đông y mỗi ngón là một đường kinh vừa chỉ cơ sở tạng phủ, vừa chỉ chức năng hoạt động của tạng phủ, như ngón tay út chỉ tim và ruột non, ngón áp út chỉ khí và huyết, ngón giữa chỉ hệ động mạch và tĩnh mạch, ngón trỏ chỉ ruột già, ngón cái chỉ phổi, ngón chân út chỉ bàng quang, ngón thứ tư chỉ chức năng túi mật, ngón chân giữa chỉ thận, ngón chân thứ hai chỉ bao tử, ngón chân cái chỉ gan, lá mía .Cần day bấm mỗi ngày nhiều lần để đánh thức thần kinh chức năng của các cơ quan tạng phủ hoạt động trở lại bình thường.

4- Muốn phục hồi các chức năng, cần phải tăng cường oxy cho cơ thể :
Cho oxy vào não ở huyệt Nhân trung, vào tim ở huyệt Hạ quan kích thích van tim hoạt động, vào phổi ở huyệt Trung phủ theo hơi thở xẹp xuống thì ấn vào, thở ra nhấc lên, máy thở sẽ thay đổi oxy vào nhiều hơn, cho oxy vào huyệt tiêu hóa ở huyệt Trung quản để tăng cường thêm hơi thở bụng giúp cơ thể chuyển động khí huyết lưu thông toàn thân. Lúc đó các chỉ số trên đồng hồ thay đổi tốt

5-Làm mở mắt bằng huyệt Tam âm giao vuốt 9 lần từ dưới lên trên, mắt bệnh nhân chớp chớp, gọi bệnh nhân mở mắt và bảo bệnh nhân chớp chớp mắt liên tục. Nếu bệnh nhân làm được là trí não đã được phụ hồi, có sự hiểu biết, nhưng khí lực chưa đủ lên đến mắt để làm mở mắt, vì thế khi chớp chớp mắt để khôi phục lại cơ vòng mắt, hay mình có thể dùng tay mở mắt bệnh nhân và bảo bệnh nhân nhìn sang trái sang phải nhiều lần.
Mắt là cửa sổ của tâm hồn, theo đông y chính là hồn khai khiếu ra mắt, mở mắt nhìn được sự vật là máy chụp hình ảnh bên ngoài để hồn nhận biết phân tích hiểu biết, gợi trí nhớ, lúc đó bệnh nhân sẽ nhận ra được người nhà.

Muốn não khỏi bị liệt, muốn não không bị mất trí nhớ khi vừa tỉnh dạy, hãy đặt ecouteur vào tai, cho bệnh nghe tin tức, nhạc, hay tiếng nói người nhà, thỉnh thoảng gọi tên bệnh nhân, bệnh nhân được nhắc nhở bằng những tiếng kêu gọi ấy trong tiềm thức, mặc dù đang ngủ, nhưng khi do tiếng động tiếng nói trong băng ghi âm làm bệnh nhân tỉnh lại, sẽ có phản ứng như một phép lạ trong trường hợp bệnh nhân có phản ứng như vừa ngủ một giấc rồi tỉnh dạy, không biết những chuyện gì đã xảy ra trong thời gian vừa qua, như trường hợp bệnh nhân NCL tưởng như mình vẫn còn đang đứng trên bục giảng của trường đại học, lúc đó bệnh nhân đang được đặt ống nghe ở tai để nghe tin tức radio buổi sáng, hỏi anh đang nghe gì, anh cho biết đang nghe tin tức, khi cho băng nhạc VN lúc anh đang hôn mê để anh nghe lại, rồi hỏi anh thích không, anh trả lời nghe nhạc VN chán lắm, tôi mới nhớ ra anh đi du học từ nhỏ đã quen thích nhạc tây phương nên cho anh nghe nhạc tây phương. Sau bác sĩ chuyên khoa thần kinh nghi ngờ không thể nào trí óc anh có thể phục hồi được một cách kỳ diệu như vậy, mới đến thử anh, hỏi anh mấy ngón tay, tên anh là gì, bảo anh nhăc lại 3 tên đồ vật sau khi bác sĩ nói, anh chán qúa thở dài, anh hỏi vặn lại bác sĩ nhiều điều cao hơn ở trình độ đại học, nên cuối cùng bác sĩ bảo anh nhăc tên 20 đồ vật, anh nhắc được đủ và đúng hết, bác sĩ thần kinh mới công nhận trí nhớ anh đã phục hồi lại hoàn toàn như người bình thường một cách kỳ lạ từ trước đến nay chưa từng xảy ra.

Để cứu tỉnh người thân với năm động tác này, người nhà phải làm mỗi ngày, bệnh nhân sẽ tỉnh lại.

Trong trường hợp các chỉ số trên máy đều tốt, ổn định, không thay đổi xấu hơn, nhưng cũng không thay đổi tốt hơn, chưa thấy sự sống được hồi phục hoàn toàn có nghĩa là cơ thể vật chất đã được phục hồi, nhưng còn tùy thuộc vào hai cơ thể khác là cơ thể năng lượng và cơ thể tâm linh. Cơ thể năng lượng thiếu có thể do thiếu chất đường do đường qúa thấp, do thiếu khí oxy, thiếu calcium, thiếu thức ăn…Còn cơ thể tâm linh do hậu qủa của thuốc ngủ, thuốc mê khiến du hồn đang đi trong những giấc mơ sâu, cần phải bớt thuồc ngủ và luôn luôn gọi tên bệnh nhân bên tai, vì thế mới cần để máy ghi âm có tiếng gọi của người thân đánh thức bên tai luôn luôn.
Trong những trường hợp cơ thể tâm linh chưa phục hồi do sai lầm của thuốc bệnh nhân cũng có thể bị chết oan khi bị rút ống thở do sự đề nghị của các bác sị hoặc do sự đồng ý vội vã của những người thân trong gia đình. Chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm dưới đây của cô Phương ở Hamilton để tránh những sai lầm đáng tiếc xảy ra.

Thân gửi các huynh tỷ
Xin lỗi đã đường đột gửi đến tất cả mọi người tâm sự sau đây của tôi.Mong câ chuyện sẽ có thể giúp ai đó nếu gặp chuyện tương tự.
Cách đây 2 năm, năm đó mẹ chồng của tôi bị stroke (90 tuổi), nằm một tuần lễ chỉ truyền nước biển và mê man. Được một tuần, họ đòi rút ống thở, mình không chịu, xin cứu chữa, họ không chịu.

Sau đó hiểu ra là tại thuốc ngủ làm mê man ngủ hoài, thế là chị em tôi lén đổ bớt thuốc ngủ (đựng trong bao nhỏ, truyền cùng túi nước biển). Thế là bà cụ không ngủ mãi nữa. 24/24 hai chị em thay phiên nhau, lúc thì cho uống thuốc (nước trộn với bột đặc biệt dành cho người bệnh stroke) kết hợp với xoa bóp tay chân, đặc biệt bóp vào các huyệt ở nách và ở háng.
Họ rất tức giận khi thấy cho bà cụ uống nước. Họ rút nước biển, vẫn “heat” tối đa.

Nhưng với lòng kiên trì cứu mạng, khoảng 2 tuần, bà đã tỉnh, dần dần ăn được chút ít, lúc đó họ mới buông tha. Hai tuần sau khỏe mạnh về nhà. Nay đã hồi phục khá nhiều chức năng, tuy chân vẫn yếu không đi được (bị lâu rồi). Cám ơn tất cả qúy vị đã đọc……

Kinh nghiệm lâm sàng trong một ca cấp cứu bằng hơi thở hà ơi hà...hà ơi hà...

Khi tôi bước vào, trong phòng im phăng phắc, bệnh nhân là một bà cụ đang nằm như say ngủ, da mặt trắng tái, chỉ thấy lồng ngực thở gấp, ngắn, nhanh dồn dập .Cuối giường hai vợ chồng cô con gái của cụ có vẻ lo lắng và nhìn tôi như ngầm hỏi ý xem tình trạng bệnh của cụ có cứu được không.


Tôi thấy máy thở báo cho biết oxy không vào phổi được nhiều, chỉ chứa được từ 0.2-0.5 lít, nhịp thở 60 hơi trong một phút, áp huyết 197/97mmHg, nhịp tim đập 120 lần trong một phút, biểu đồ phổi chạy hình răng cưa lên cao xuống thấp bất thường không ổn định, ánh sáng ngoài trời chiếu qua cửa sổ khung kính bàng bạc ảm đạm càng làm cho da mặt cụ tái hơn. Tôi bước đến bên giường đặt hai ngón tay vào huyệt Trung phủ để tăng cường thêm oxy vào phổi cho cụ, nhưng qua huyệt tôi cảm nhận được trong phổi bị nghẽn nhiều đờm, chỉ trong vòng 30 giây đồng hồ, đờm kéo lên đầy huyệt, oxy vào phổi thấp dần. Tôi gọi con cụ báo cho y tá và bác sĩ, yêu cầu họ hút đờm ra nội tối nay sẽ cứu được bằng không kịp, cụ sẽ tắt hơi mất mạng như chơi . Y tá vào rọi đèn khám miệng, xem xong và nói không có đờm, tôi bảo cụ có nhiều đờm trong phổi chứ không phải trong miệng. Cuối cùng y tá cũng rút được những khối lượng đờm đặc từ phổi chạy ra theo ống nhựa được hơn nửa thước, cụ mở mắt tỉnh lại, hơi thở mạnh hơn, lượng oxy vào được 1.2 lít.Tôi yên chí đáp chuyến bay tối trở về Montréal trong lòng nhẹ nhõm.

Cứ mỗi hai tuần tôi có lớp dạy ở Toronto, tôi nghe nói cụ đã khỏe hơn trước, thân nhân mời tôi ghé lại bệnh viện để giúp thêm cho cụ mau bình phục trước khi về lại Montréal. Lúc tôi đến, cụ đang ngồi trên giường nhìn ra cửa sổ, hai bác sĩ đang theo dõi các thông số của các máy đo tim mạch, áp huyết, nhịp thở, lượng oxy vào phổi, còn hai người con đang đứng cuối giường, nhìn thấy tôi vào, họ nói với cụ, má ơi thầy Ngọc đến, cụ nhìn tôi mỉm cười, họ giới thiệu công việc làm của tôi với hai bác sĩ, chúng tôi bắt tay nhau. Bác sĩ cho phép và theo dõi xem tôi sẽ làm những cái gì. Nhìn vào máy đo oxy vào phổi của cụ còn ít, chỉ chạy trong khoảng 1.10-1.50 lít .Tôi hỏi, cụ có khỏe không, cụ khẽ trả lời khỏe. Tôi nói với hai bác sĩ và vợ chồng con gái cụ là khí công chỉ là tập phương pháp thở đúng sẽ làm thay đổi chỉ số đo trên máy mỗi lúc mỗi khá hơn, nhưng muốn duy trì các thông số được ổn định lâu dài trở thành bình thường thì chính bệnh nhân và người nhà bệnh nhân phải thường xuyên nhắc nhở và giúp người bệnh tự tập lấy. Vì có hai bác sĩ đứng xem, tôi không muốn tăng cường oxy bằng huyệt, có thể họ cho rằng mình làm ảo thuật, hoặc nếu có tin nó là một khoa chuyên môn đặc biệt thì chỉ một số ít người mới có khả năng làm phép lạ (miracle) chứ người khác không có, như vậy sẽ không phải là một phương pháp khoa học đại chúng mà mọi người dễ học được..

Cách dùng huyệt để chữa bệnh phải cần có thời giờ học hỏi tìm nguyên nhân, dấu hiệu triệu chứng lâm sàng, và cách điều chỉnh sự khí hóa ngũ hành thông qua cách khám bằng tứ chẩn vọng, văn, vấn, thiết, định bệnh bằng bát cương âm dương, khí huyết, hư thực, hàn nhiệt, biểu lý, điều chỉnh bằng cách đối chứng trị liệu lâm sàng để bổ hay tả theo quy luật ngũ hành. Nếu những người chưa biết về đông y thì khó có thể hiểu nổi. Nhưng khi điều chỉnh bằng hơi thở thì mọi người có thể áp dụng dễ dàng, kết qủa nhanh. Trước kia tây y chưa có máy móc tối tân để kiểm nghiệm thì nếu chúng ta áp dụng nguyên tắc đông y khí công để chữa bệnh có kết qủa thần kỳ cũng không ai tin, mặc dù đông y bắt mạch kiểm chứng so sánh thấy sự khác biệt với trước khi chữa, nhưng chúng ta nói rằng bệnh đã khỏi thì tây y không tin, vì không có con số cụ thể làm bằng cớ. Ngày nay tây y có máy đo chính xác ,chúng ta nhờ vào máy để theo dõi cách chữa trị của mình mới thấy được khả năng chữa bệnh của đông y khí công là kỳ diệu. Cũng vì sự tự tin trên kinh nghiệm lâm sàng trong nhiều ca bệnh hiểm nghèo, tôi đã biểu diễn cách chỉ bệnh nhân tự chữa bệnh bằng hơi thở, công sức và thời gian bỏ ra để tập thở cho có hiệu qủa được gọi là khí công, chứ không phải công lực của một ông thầy tầu vận nội công truyền khí cho bệnh nhân như trong phim chưởng mà chúng ta thường thấy, những thầy khí công chân truyền từ phái Thiếu lâm, Võ Đang, Hằng sơn, hay Nga Mi như thế thật khan hiếm ở đời này, mà đa số ngại rằng có nhiều thầy khí công dởm làm mất niềm tin khiến họ tiền mất tật mang.

Trước sự chứng kiến của bác sĩ và người thân của bệnh nhân, tôi bảo cụ tượng tượng con gái cụ tên là Hà, cụ hãy bắt chước tôi gọi cô ta giống như tôi đang gọi : Hà ơi,.. Hà ơi,.. Hà ơi,.. Hà ơi.. Khi cụ gọi đều đặn, chậm, nhẹ, lâu chừng 3 phút, nhịp tim từ 120 xuống còn 100, chỉ số hơi thở từ 60 giảm xuống còn 40 hơi trong một phút, dung tích phổi chứa khí từ 40% lên 60%, lượng oxy vào phổi từ 1,10-1,50 lít tăng lên 2.00-2.50 lít, áp huyết từ 197/97 mmHg giảm xuống 180/92 mmHg. Tôi hỏi cụ bây giờ cụ cảm thấy khỏe hơn không, cụ trả lời khỏe với giọng nói mạnh và lớn hơn bình thường. Tôi muốn khuyến khích cho cụ tự tin là cách thở như thế có thể giúp cụ mau khỏi bệnh nên chỉ cho cụ nhìn vào máy đo trong lúc tập thở, tôi đổi cách thở cho cụ được dài hơn, chậm hơn, để làm tăng lượng oxy trong phổi nhiều hơn bằng cách bảo cụ gọi thêm một chữ Hà nữa, nào, cụ gọi đi : Hà ơi.. Hà.., Hà ơi.. Hà.., Hà ơi..Hà.., và tôi yêu cầu cụ gọi chậm, nhẹ, đều, lâu 5 phút , mọi người trong phòng có thể thấy được kết qủa tức thời trên máy đo đang thay đổi dần, áp huyết giảm còn 145/87mmHg, nhịp tim xuống còn 80, điện phế đồ hình răng cưa trở thành hình sin, dung tích phổi chứa được 100%, lượng oxy vào phổi từ 2.50 lên 3.50 lít, sắc mặt cụ hơi hồng, hỏi cụ có khỏe hơn không, cụ trả lời khỏe nhiều và nói cám ơn thầy. Vậy cụ cứ tiếp tục gọi Hà ơi.. Hà.. đi. Tôi đứng đợi cụ tập thở một mình, 5 phút sau điện phế đồ chạy bất bình thường trở lại hình răng cưa, dung tích chứa trong phổi giảm, nhịp thở trật phase, tôi bảo cụ ngưng lại, hít thở bình thường, bình tĩnh lại, không gọi Hà ơi..Hà.. nữa, một phút sau các đường biểu diễn trên máy trở lại bình thường , tôi lại chỉ vào máy để cụ vừa tập thở vừa nhìn vào máy, tiếp tục gọi Hà ơi.. Hà.., Hà ơi.. Hà.. đều đều, khi cụ thấy máy chạy bất bình thường thì ngưng lại, cứ thế cụ đã biết cách tự tập thở có kết qủa trên máy kiểm chứng mà không có ai có thể phủ nhận được. Các con cụ vui mừng thấy mẹ mình hiểu được phương pháp thở khí công là phải thở ra chậm, nhẹ, sâu, lâu, đều, bình thường mà không bị mệt, hoặc ngộp hơi mới có kết qủa tốt cho sức khỏe.

Trung bình một người khỏe mạnh không bệnh tật sẽ thở được 18 hơi thở vào-ra trong một phút, các lực sĩ thở sâu, lâu, chậm, nhịp thở sinh học từ 6-8 hơi trong một phút, nhịp tim đập 60-45 lần trong một phút, con rùa thở 2 hơi trong một phút sống lâu trung bình 300 năm. Phương pháp khí công thở đúng là thở ra nhiều, hít vào ít, chỉ có 6 hơi trong một phút khi áp dụng bài hát one, two, three, four, five, six, seven.. lúc hát là thì thở ra mất 7 giây, hít vào 3 giây đủ hơi để hát lập lại câu trên. Như vậy một hơi thở ra-hít vào mất 10 giây, một phút sẽ thở được 6 hơi. Bài tập này sẽ giúp cho những người ngộp thở hít không vào, khi hít vào bị dội ra vì phổi lúc nào cũng đầy căng khiến oxy hay khí không thể vào thêm được nên bị dội ra tạo ra cảm giác bệnh nhân thấy không thở được.

Bệnh khó thở nếu chữa theo tây y thì phải tìm ra nguyên nhân gây bệnh như do lao phổi ở thời kỳ phát bệnh, khi ho có đàm bị chèn ép lồng ngực, hoặc trong bệnh hen suyễn làm tắc nghẽn phế quản, tràn khí màng phổi, hoặc do viêm phế quản mạn tính gây ra bởi phế cầu khuẩn hémophilus infuenza, hoặc do sống trong môi trường ô nhiễm làm phổi bị nhiễm trùng hay virus làm tổn thương gây ra viêm phổi thùy hoặc viêm phổi đốm, hoặc viêm sưng màng phổi, màng phổi có nước...Khi tây y tìm đúng bệnh cho đúng thuốc thì bệnh sẽ khỏi, nhưng một khi chẩn đoán không tìm ra nguyên nhân thì bệnh khó thở không còn cách nào khác là phải cho thở bằng máy trợ thở. Tuy nhiên lồng ngực do bị chèn ép lúc nào cũng căng thẳng oxy không vào lúc đó tây y cũng đành bó tay .Trong trường hợp này bệnh nhân có thể tập theo lối thở của khí công sẽ có kết qủa.

Có người hỏi tại sao phải gọi tên Hà ơi mà sao không gọi Hường ơi, Hồng ơi, Lan ơi.. Được chứ, thật ra mục đích chính không phải là gọi tên người để tránh hiểu lầm nếu chẳng may một cô vợ nào đó tên Hạnh có người chồng trẻ bị bệnh phổi không thở được mà anh ta tập thở cứ gọi tên Hà ơi, Hồng ơi, Hường ơi mà không gọi Hạnh ơi.. Hạnh..,chắc cô Hạnh sẽ nổi ghen lên thì thật tai hại, ngược lại kết qủa sẽ tồi tệ hơn. Chính ra mục đích của tôi là chữa bệnh ngộp thở, hít hơi không vào do phổi bị căng đầy khí hoặc nước hoặc đờm trong phổi, phải dùng cách tháo xả khí trong phổi ra hết bằng cách mở miệng hà hơi trong phổi ra càng nhiều càng tốt cho đến khi không còn hà hơi ra được nữa khiến cho phổi thiếu hơi sẽ tạo ra phản xạ tự động hít vào, nhưng không cho hơi vào nhanh và nhiều mà chỉ chú ý hà hơi ra nhiều, không chú ý thì hít vào, chỉ tập hà hơi ra cho hết, cứ hà hơi đều đặn liên tục tự nhiên phổi sẽ hít thở dễ dàng. Đối với người bình thường muốn tập thở đúng thì nên dùng bài hát đầy đủ như sau để luyện thở khí công được chậm, nhẹ, sâu, lâu, đều, bình thường và nó vô thưởng vô phạt, tốt cho mọi người :

ONE TWO THREE
Moderato (Không in được nốt nhạc)
One two three four five six se-venOne two three four five six seven
One two three One two three One two three four five six seven

Chính bài hát tầm thường này cũng đã có công hiệu cứu được nhiều người thoát khỏi bệnh nan y như bệnh fibromyalgie mà tây y đành bó tay, đông y gọi là bệnh đau nhức thần kinh gân cơ, đa số là phụ nữ trên 40 tuổi thường mắc phải. Chứng bệnh này chia làm hai loại thực chứng và hư chứng. Thực chứng là dư thừa khí nhưng bị tắc, thân nhiệt cao, cử động nhiều càng đau nhiều đến phát khóc nổi cuồng, hư chứng là không đủ khí thúc đẩy huyết tuần hoàn làm tắc nghẽn gây đau, không có sức cử động, đau nhức qúa sinh chán đời muốn tự tử.

Có một lần, sau khi tôi hướng dẫn cho một nữ bệnh nhân Québecoise bị bệnh fibromyalgie loại thực chứng tập thở bằng cách hát bài này, phải mở miệng cho khí dư thừa thoát ra, khác với hư chứng phải hát bằng mũi, ngậm miệng, để tích lũy khí giúp cho sự thúc đẩy tuần hoàn huyết được mạnh tạo tần số thở đều theo nhịp của bài hát. Hát xong bà cảm thấy khỏe hết đau nhức, nhưng bà hỏi nó có thể chữa hết bệnh được không và tại sao ? Nó có 4 điều lợi, thứ nhất hát làm cho bớt căng thẳng để thư giãn thần kinh, giảm đau thần kinh gân cơ, thứ hai hát chính là thở ra nhiều hơn hít vào làm giảm áp huyết và thân nhiệt, thứ ba hát cho tinh thần vui vẻ, thứ tư hát để dung tích phổi hoạt động nhiều hơn làm lưu thông khí huyết toàn thân theo một tần số thở có nhịp điệu giúp hệ nội tiết tạo ra thuốc tự chữa bệnh. Bà hỏi có thật chữa bệnh dễ dàng như vậy không ? Bởi vì bệnh của bà khi suy nghĩ, buồn giận, lo sợ, rối loạn tâm thần xẩy ra bất cứ lúc nào là các thần kinh gân cơ co rút làm cơ thể đau đớn đến phát khóc, dù đêm hay ngày. Bà yêu cầu nếu ban đêm bà bị đau, tôi có thể cho bà số điện thoại tư gia để bà gọi cho tôi xin lời khuyên được không, theo lời bà cho biết thì bệnh này phải uống thuốc suốt đời, và nếu có đang đi làm mà bị bệnh này, thì sở không được giao những việc nặng nhọc hay quan trọng, vì khi cơn đau đến họ sẽ buông bỏ hết, còn nếu cơn đau thường xuyên xảy ra không thể làm việc được như bà thì sở đã phải cho bà nghỉ việc và hưởng lương hưu 80% cho đến hết đời. Tôi nghĩ bệnh này do tâm lý thần kinh có ảnh hưởng gây nên bệnh nhiều hơn, nếu không cho bà số điện thoại thì bà sẽ mất niềm tin vào thầy thuốc, còn nếu cho bà thì chắc chắn ban đêm mình sẽ bị bà quấy rầy, nhưng bắt buộc phải cho để bà yên lòng.

Quả thật 11 giờ đêm bà vừa khóc vừa gọi báo cho biết bà đang bị đau nhức qúa phải làm sao. Tôi đề nghị bà ngâm mình vào bồn tắm nước lạnh vừa phải và tập hát bài one two three ..khoảng nửa giờ và cho tôi biết kết qủa. Sau nửa giờ bà gọi lại cho tôi biết đã hết đau. Tôi nói, bây giờ bà đã biết cách tự mình chữa được hết bệnh đau nhức thần kinh gân cơ rồi, vậy mỗi khi bà đau bà cứ tiếp tục làm như thế. Một năm sau bà đã đi làm trở lại ở một cơ sở thiện nguyện cho chân tay được cử động tránh buồn chán, và giúp đỡ người khác cho tinh thần được vui vẻ.

Hát một bài hát theo một nhịp đều, không cao không thấp, không mang ý nghĩ tình cảm vui qúa, buồn qúa làm ảnh hưởng thần kinh, chỉ cần có âm điệu vui, vô thưởng vô phạt thì chính là cách tập thở hay nhất để tăng cường chức năng hô hấp giúp cơ thể tuần hoàn lưu thông khí huyết được khắp toàn thân.

Theo Tây y, chức năng hô hấp lệ thuộc vào phế dung chứa 4 phần, phần không khí cặn chứa trong khí quản, phế quản là thông khí khoảng chết, phần không khí trữ khi ráng thở ra, phần không khí lưu thông, và phần không khí bổ sung ráng hít vào, tổng số lượng không khí chứa trong bốn phần đó gọi là dung tích phổi sống. Khi thể tích không khí thở ra tối đa tính theo giây được nhiều bao nhiêu (volume expiratoire maximum seconde viết tắt là VEMS ) thì khi thở vào sẽ được nhiều bấy nhiêu, và tỷ lệ so sánh với dung tích phổi sống gọi là tỷ số Tiffeneau càng cao thì phổi càng khỏe, như vậy nếu dung tích phổi sống bị giảm là do một trong những nguyên nhân như hen suyễn, viêm phổi, viêm màng phổi, xơ phổi, liệt hô hấp, co rút phổi do bướu gù, cứng liền khớp sườn hoặc đốt sống, xẹp phổi, bệnh huyết khối tắc mạch, hẹp lỗ van hai lá, bloc phế nang mao mạch..

Còn theo đông y khí công, trong cơ thể có 5 loại khí ,phần không khí bổ sung ráng hít vào là phần thu dưỡng oxy tối đa do tập luyện như các nhà thể thao, lực sĩ được gọi là tông khí, nó giúp cho phổi vừa có nhiều oxy để duy trì và tăng hồng cầu, vừa tạo ra nhiều áp lực khí thúc đẩy tuần hoàn khí huyết lưu thông trong cơ thể giúp cho chức năng hoạt động từng loại khí riêng của lục phủ ngũ tạng như phế khí, thận khí, can khí, tâm khí, tỳ khí gọi chung là ngũ tạng khí, và nhờ vào nguyên khí bẩm sinh tại thận ( giống như chất liệu tốt làm ra pile tốt dùng được lâu bền ), cả ba loại khí này tạo ra sự sinh hóa và chuyển hóa thu nạp chất bổ của thức ăn uống để biến đổi thành hai loại khí khác cần thiết nuôi dưỡng cơ thể phát triển tạo ra da thịt gân xương râu tóc.. gọi là vinh khí và loại khí bảo vệ cơ thể chống bệnh tật gọi là vệ khí. Cho nên khi đông y khí công khám một người bệnh, phải biết bệnh nhân thiếu khí nào và nguyên nhân tại sao, lúc đó sẽ có các cách chữa khác nhau.

Cách chữa bệnh thiếu khí bằng đông y khí công được chia làm hai loại, một loại cần tăng cường oxy cho cơ thể lấy từ bên ngoài cơ thể vào, do tập luyện hít thở, một loại cần cho sự sinh hóa và chuyển hóa làm thay đổi khí từ bên trong cơ thể do day bấm huyệt.

Thật ra khoa bấm huyệt có thể làm tăng cường thêm lượng oxy vào từng các bộ phận riêng rẽ tùy theo nơi thiếu. Thí dụ một người vẫn có hơi thở mạnh nhưng tự nhiên bị ngạt thở do khói xe xăng dầu ô nhiễm trong không khí khiến não thiếu oxy dễ bị bệnh nhũn não gây stroke, hoa mắt chóng mặt, té ngã hôn mê bất tỉnh rồi chết. Trong những trường hợp này khí công dùng huyệt Nhân trung để cải thiện hô hấp trong cấp cứu tăng cường oxy cho não trong bệnh hôn mê bất tỉnh (coma). Dùng ngón tay day vào huyệt Nhân trung là huyệt vừa có khả năng cải thiện hô hấp, điều hòa âm dương ngăn ngừa tê liệt mặt, méo miệng và vừa tăng cường đưa oxy vào não giúp phục hồi làm sống lại chức năng thần kinh hô hấp, một ngón tay khác có thể cùng lúc bấm huyệt Nội quan bên cổ tay trái giúp duy trì tim mạch và áp huyết được ổn định.

Tim thiếu oxy khiến tim đập bất bình thường trong bệnh hở van tim, có triệu chứng môi dưới tím nhạt, sưng dầy và xệ, mầu sắc trên móng tay thâm xanh đen giống như các đầu ngón tay nhúng chàm, khí công dùng huyệt Hạ quan tăng cường oxy cho tim để phòng và chữa bệnh hở van tim. 

Phổi thiếu oxy chỉ thở hắt ra mà không hít vào được nhiều trong bệnh suyễn, dùng huyệt Vân môn, Trung phủ để tăng cường oxy cho phổi.

Máu thiếu oxy làm hồng cầu giảm, không cân bằng phản ứng hóa học với chất sắt để biến máu đen thành máu đỏ mà ngược lại làm máu đỏ ít đi, máu đen nhiều lên, máu đen là oxyde sắt nhị (Fe2O2) khi hít vào thêm oxy sẽ biến thành máu đỏ oxyde sắt tam (Fe2O3 ), nếu oxy không vào đủ thì máu đỏ lại trở thành máu đen không trung hòa được phản ứng hóa học sẽ làm dư thừa chất sắt, bấm vào huyệt Chiên trung giúp cho bệnh nhân thở sâu được xuống bụng dưới giúp tăng cường oxy cho hệ dinh dưỡng và hệ miễn nhiễm để điều chỉnh và phòng chống bệnh tật.

Bao tử thiếu oxy khiến bao tử teo không co bóp làm trở ngại hấp thụ và chuyển hóa khiến thức ăn không biến thành máu mà thành mỡ và đờm, dùng huyệt Trung quản tăng cường oxy cho bao tử để giúp tăng tính hấp thụ và chuyển hóa biến thức ăn thành máu và năng lượng.

Thận không đủ oxy nên chức năng lọc của thận giảm, dùng huyệt Khí hải tăng cường khí oxy biến thành nhiệt lượng giữ cơ thể ấm và chuyển hóa chất bổ thành khí lực và dùng huyệt Tam tiêu du tăng cường oxy cho thận âm chuyển hóa thành thận dương để lọc thận điều chỉnh quân bình tỷ lệ đường, vôi, muối, mỡ, nước trong cơ thể tránh nguy cơ gây nên bệnh cao áp huyết, tiểu đường, cholesterol, xốp xương, vôi hóa..

Tập thở theo phương pháp khí công chữa bệnh có nhiều cách thở khác nhau như thở bằng ngực gọi là đan điền khí, thở bằng bụng và cơ hoành (bụng trên) gọi là đan điền thần, thở bằng bụng dưới gọi là đan điền tinh, thở bằng thận ở huyệt Mệnh môn để chuyển hóa khí hóa thần.. mỗi cách thở khác nhau cơ thể tạo ra thuốc khác nhau, thuốc được sản xuất ra từ tuyến giáp trạng, tuyến tùng, tuyến yên, tuyến thượng thận.. tất cả các phản ứng hóa học xảy ra trong cơ thể để tự điều chỉnh sự mất quân bình khí hóa, sinh hóa và chuyển hóa của cơ thể, đông y gọi là hệ nội dược (système endocrine).

Vì thế mà chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi chúng ta chữa bệnh theo đông y khí công là phải đối chứng lâm sàng, nghĩa là phải đứng trước mặt bệnh nhân trên giường bệnh để quan sát tìm nguyên nhân mới có phương pháp ứng xử hợp lý vào ngay lúc đó, cho nên tôi mới chế ra cách bảo bà cụ gọi Hà ơi.. Hà.., Hà ơi.. Hà.. cũng là một phương pháp đang tập thở với hơi thở có kiểm soát chậm, nhẹ, sâu , lâu đều, bình thường làm cho tần số thở đều và chậm lại, sẽ làm thư giãn gân cơ, ống mạch, làm thần kinh bớt căng thẳng co thắt, giúp tăng lượng oxy và áp lực cho sự tuần hoàn khí huyết trong cơ thể, tăng nồng độ CO2 vừa phải, giúp cơ thể ấm áp da dẻ hồng hào. Do đó bà cụ tự thở được dễ dàng và cảm thấy khỏe, đã được ra khỏi khu bệnh urgence sang khu dưỡng bệnh hồi sức, mặc dù đã qua khỏi cơn hiểm nghèo, cụ vẫn tiếp tục được các anh chị thiện nguyện viên của Phân hội khí công Toronto săn sóc sức khoẻ mỗi ngày một khá hơn. Hiện nay cụ đã được xuất viện về nhà.  Chuyện này xảy ra cách đây đã 3 năm, bây giờ cụ vẫn khoẻ mạnh ở nhà trông nom con cháu .

Đề phòng Tập khí công bị tẩu hoả nhập ma

Thưa Thầy tại sao con mỗi lần tập môn gì đó là cơ thể lại rung động nhiều rất là khó chịu, Thầy có thể giải thích tại sao không ? Tập môn khí công cũng vậy, cơ thể rung động, tại sao lại như vậy, nhiều lúc tưởng tuợng cũng như vậy .?


Giải đáp :Một thí dụ dễ hiểu như nhà mình ở thôn quê muốn mua một máy phát điện để dùng cho 12 ngọn đèn 110v -100w chỉ cần một máy nhỏ đặt trên nền đất, máy chạy êm mà không bị rung, nhưng lại muốn chơi trội hơn hàng xóm, mua máy lớn có công suất gấp 3-4 lần, do đó khi đặt trên nền nhà, lúc máy chạy sẽ bị rung, có nghĩa là nền đất không đủ độ cứng và mấy con ốc chân máy không được xiết chặt làm máy bị rung sẽ tạo sự cộng hưởng phá hỏng nền nhà và hỏng máy. Muốn tránh tình trạng này, phải xây một bệ xi măng chắc chắn để xiết ốc giữ chân máy vững vàng, lúc đó máy sẽ không bị rung nữa.

Cũng như thế, cơ thể chúng ta là cái nền nhà, các môn tập thiền hay khí công là các loại máy lớn nhỏ khác nhau. Nền tảng tu luyện không căn bản vững chắc mà mong cầu đạt được thành qủa to lớn sẽ có hiện tượng như trên, đó là dấu hiệu sắp tẩu hỏa thành điên mà người ta gọi là bệnh tâm thần, có những giai đoạn diễn tiến từ từ như cao áp huyết, tính tình ưa nóng giận, mặt đỏ, hay tranh cãi, cố chấp, động mạch vành bị phình, bàn tay bị run giật, mỗi lần vừa ngồi định tâm là đầu cổ bị lắc không kìm hãm lại được, chính lúc đó, có thể tay chân múa may vô ý thức, dân gian gọi là ma nhập.

Một thí dụ khác để chúng ta hiểu rõ về tu thiền. Trong một câu chuyện tu luyện thiền yoga, ông Yoga Nanda được Thầy cho mắt ông thấy được những chuyện xảy ra trước mắt sau 5 phút một cảnh tai nạn xe hơi. Sau đó qủa thật khi hai Thầy trò đứng ngã tư chờ qua đường, thì 2 xe đụng nhau giống như cảnh mà ông đã vừa nhìn thấy trước 5 phút.

Ông hỏi Thầy : Sao Thầy không dạy cho con môn học này ?

Thầy trả lời : Không phải Thầy không muốn dạy cho con. Bởi vì công năng tu tập của con mới chỉ đạt được công suất làm sáng một bóng đèn 12 watts. Năng lượng của Thầy giống như 20 ngàn watts. Nếu Thầy cho năng lượng này vào, bóng đến của con sẽ bị cháy.

Vì vậy, để tránh hậu qủa tẩu hỏa nhập ma có thể xảy , hãy kiên nhẫn tập luyện theo dõi hơi thở tự nó đi theo kinh mạch, ý trụ vào đan điền thần hay đan đền tinh hay Mệnh môn tùy theo lúc mà cơ thể cần.

Nhớ rằng luyện thở để tự điều chỉnh sức khỏe của mình. Khi cơ thể lạnh, ý tập trung Đan điền Thần, khi cơ thể nóng, ý tập trung Đan điền tinh, chuyển tinh hóa khí thì ý tập trung Mệnh môn.

Các giai đoạn tập thứ tự :
Khởi đầu phải tập luyện khí hòa hợp với thần (tức là ý khí hợp nhất), rồi đến luyện tinh hóa khí, luyện một thời gian tinh-khí hợp nhất, mới luyện khí hóa thần, khi luyện tinh-khí-thần hợp nhất, rồi diệt dục để hoàn tinh bổ não, cuối cùng luyện thần hoàn hư, phát triển trí não, từ giai đoạn này phải giữ giới, định thần, mới phát triển trí tuệ, mà Phật giáo gọi là GIỚI ĐỊNH HUỆ.

Tự mình xét xem cách tập của mình có theo từng giai đoạn như vậy hay không, nếu không thì không phải là Môn học Khí Công Y Đạo.

Đã có nhiều học viên trước khi đến học môn Khí Công Y Đạo cũng đã từng là những người tu luyện nhiều môn khác bị tẩu hỏa nhập ma. Họ đã được chúng tôi tả tâm hỏa, tập thể dục khí công phần động công cho khí huyết lưu thông một thời gian. Khi khám lại kinh mạch được điều hòa ổn định, lúc đó mới bắt đầu tập đến phần tập thở tĩnh công .

Chính nhờ những BÀI TẬP THỂ DỤC ĐỘNG CÔNG sẽ giúp được cho những người bị hìện tượng tẩu hỏa nhập ma đìều chỉnh được cơ thể trở lại bình thường khỏe mạnh, phòng chống bệnh tật, vì toàn bộ bài tập được sắp xếp có trình tự để thông Kỳ Kinh Bát Mạch, 12 kinh mạch, thông các đại huyệt và các Luân xa để tự khai mở Tiểu Chu Thiên và Đại Chu thiên.

BÀI TẬP TĨNH CÔNG giúp cơ thể chuyển hóa : Tinh hóa khí, khí hóa thần và giai đoạn tập luyện thần hoàn hư phải đòi hỏi rất nhiều thời gian tu luyện và được Thầy hướng dẫn và kiểm soát từng người nên không được phổ biến rộng rãi ở đây.

Chúng tôi sẽ upload DVD Bài tập thể dục khí công y đạo lên mạng. Nếu để tập chữa bệnh, quý vị có thể tập những bài liên quan đến bệnh của mịnh. Nếu muốn tăng cường sức khoẻ phòng chống bệnh tật thì tập từ đầu đến cuối .

Sau khi quý vị hiểu hết cách tập và tập nhuần nhuyễn tất cả các bài tập mà không mệt mỏi là sức khoẻ của quý vị đã được tăng cường, lúc đó quý vị có thể hướng dẫn cho những người thân có bệnh biết phải tập những bài nào để mau được khỏi bệnh.

Khí công chữa lạnh

Kính gửi thầy Đỗ Đức Ngọc

Xin thầy hướng dẫn có bài khí công nào có thể chữa chứng tay chân hoặc thân người khi trời trở lạnh là cứ bị lạnh giá như "tay ma".
Mong được thầy sớm chỉ dẫn. Xin cảm ơn thầy.

Bài nguyên thủy được đăng bởi toidot

Trả lời :

Các bạn hãy tập các bài tập thể dục khí công sau đây :

1-Tập 7 bài đầu (Cào đầu, cào gáy, chà cổ, vuốt gáy, vuốt cổ, chà tai, xoa mặt)
2-Bài Vỗ tay 4 nhịp (200 lần)
3-Bài Dậm chân hát 1,2,3...7. (3 phút)
4-Bài Đứng Tấn Ngũ hành (5 phút mỗi lần, ngày đứng 3 lần)
5-Bài Nạp khí trung tiêu ( nằm đưa 2 chân thẳng đầu gối, một góc 45 độ, cuốn lưỡi ngậm miệng thở bằng mũi trong thời gian tập,hai tay để trên bụng nơi đan điền thần,(dưới mỏm xương ức), chân đưa lên lâu ít nhất 1 phút mỗi lần, rổi hạ chân xuống nghỉ, thư giãn các cơ, nhưng miệng vẫn ngậm, khí bị nén hơi thở mà không có lối thoát ra miệng nhanh, nó sẽ tạo cho bụng bị nhồi phồng lên xẹp xuống dồn dập nhiều lần để đẩy khí lưu thông khắp cơ thể cho đến khi bụng hết nhồi, trở lại hơi thở bình thường thì lại đưa 2 chân lên tập tiếp 1 phút nữa, bài tập này lập đi lập lại 5 lần, cho đến khi trán xuất mồ hôi mới thành công.

Muốn dùng thuốc uống để bàn tay bàn chân ấm lại thì mua thuốc viên Bát Vị Quế phụ, mỗi lần ngậm 20 viên nhỏ trong miệng, dưới lưỡi cho đến khi tan mới uống nước ấm.

Sau khi dùng hết một lọ , hãy đo áp huyết, nếu thấp , có thể dùng tiếp tục cho đến khi cảm thấy cơ thể khoẻ mạnh, ấm áp, áp huyết trung bình, thì ngưng.


Huyệt Đan Điền ở đâu - Công dụng?

Kính gửi Đại Phu Đỗ Đức Ngọc

Tôi rất cám ơn ngài gửi cho Đồ hình các kinh huyệt.
Tôi là người tu thiền, muốn biết đích xác huyệt Đan Điền, chỉ biết đại
khái dưới rốn 2 phân (2 đốt ngón tay), và thắc mắc rằng, sâu hơn huyệt
Đan điền nữa là huyệt gì, trên Đan điền là huyệt Âm giao có phải cũng
là Đan điền không thưa Đại phu ? Tôi quen biết một võ sư cho biết đó
là huyệt Khí Hải, xin đại phu xác định, chỉ giáo dùm cho chính xác vị
trí.
Chúc Đại phu mọi điều như ý và càng thêm công đức, phổ độ chúng sinh.

Kính thư,
Tăng
Trả lời : 
Khí Hải còn gọi là Đan điền Tinh, dưới huyệt Khí Hải có huyệt Quan
nguyên, nhà đạo gọi là Chơn khí huyệt, Âm giao không phải là Đan
điền.
Khí công thiền có 3 đan điền, Đan điền khí từ xương ức lên đỉnh
đầu, khi thở thiền chú ý hơi thở ở Thiên môn (chỗ lõm trên đỉnh đầu do
thiền mà có, không hoàn toàn đúng vào huyệt Bách hội) hay chú ý vào Ấn
đường, hai nơi này gọi là đan điền khí. Đan điền thần là nơi âm dương gặp nhau để biến hóa, gọi lả Hư vô huyệt lý, sờ và nhìn không thấy, rộng vuông vức 1 thốn 2, cách tim 3 thốn 6, cách thận 3 thốn 6 .Tổng cộng tâm hỏa cách thận thủy 8 thốn 4, tương đương với khoảng cách từ mặt trời xuống biển là 84 muôn ngàn dặm (84x10000x1000x1,732khm) điểm giữa trời với đất giao tiếp điện âm dương tạo ra tiếng sấm sét ở thiên nhiên, thì Hư vô huyệt lý cũng tạo ra chấn động âm dưong, nên gọi là đan điền thần, khi thở tập trung ý tại đan điền thần dưới xương ức gần huyệt Cưu vĩ, nó nằm sâu bên trong, vô hình, Thái thượng Lão quân gọi cách thở này là Lập Lư Đảnh để nấu thuốc luyện tiên đơn (lửa cung ly đốt vàng cung khảm), khí công gọi là cách thở thai tức (bào thai trong bụng mẹ không cần thở bằng mũi để lấy oxy bên ngoài, chỉ cần theo dõi nhịp mạch đập ở đan điền thần, thấy nó vẫn đập, mặc dù mình không thở mà vẫn sống ), cuốn lưỡi nối vòng Nhâm Đốc để khí đi xuống 12 đốt cổ họng thì 12 đốt này nhà đạo gọi là Thập nhị trùng lầu, nhưng luyện đến khi chuyển tinh hoá khí, chuyển khí hóa thần, thì khí đi lên sau lưng vòng phía sau 12 đốt cổ lên đầu vào cung Nê hoàn thì 12 đốt này có tên gọi khác là Thập nhị trùng thiên.....

Thân
Doducngoc
Vô cùng cám ơn Đại Phu đã giảng giải rất chi tiết về Đan Điền Tinh,
Khí, Thần, khiến tiểu nhân được mở rộng tầm kiến thức.
Nhưng lại thêm các danh từ như Thốn, Cung Nê Hoàn, khiến tiểu nhân
thêm mờ mịt.  Xin cho biết 1 thốn tương đương với bao nhiêu cm hay
inches, trong hệ thống đo lường hiện đại.  Và vị trí cung Nê Hoàn ở
đâu ?
Ngoài ra, cách thận 3 thốn 6 lại cách thận thủy 8 thốn 4, là sao?
Khác biệt thế nào giữa 2 Thận và Thận thủy ?
Xin cảm tạ,
Tăng

Trả lời : 1-Thốn là đơn vị đo lường chiều dài của 1 đốt lóng tay của mỗi ngườI
mập ốm khác nhau theo tỷ lệ với thân hình của người ấy, nhưng theo 1
quy luật chung như khoảng cách giữa 2 núm vú là 8 thốn, khoảng cách
lằn chỉ nhượng tay đến lằn chỉ cổ tay dài 12 thốn, thí dụ nói huyệt
Nội Quan cách lằn chỉ cổ tay 2 thốn, thì huyệt này trên tay một đứa
nhỏ chỉ dài có 3cm, nhưng trên cổ tay người lớn 7cm... do đó đơn vị đo
huyệt gọi là đồng thân thốn, lấy đốt tay người nào đo lên thân người
ấy, chứ không đo trên người khác được. Thời nay giải quyết dễ dàng
hơn, xem thốn là 1 đoạn, vậy huyệt Nội quan là 2/12 (trên tổng số 12
đoạn của chiều dài cánh tay)...

Từ rốn xuống xương mu dài 5 thốn, huyệt Khí hải tính từ rốn xuống là 1
thốn rưỡi, tức là 1.5/5.

2-Nê hoàn cung ví như phòng ngủ của vua, nằm trong đầu nhưng vô hình
không có vị trí nhất định, không phải ai cũng có, chỉ có những vị tu
thiền đạt mức thượng trí (kiến thức ngoài thế gian không có). Còn đan
điền thần, nhà đạo gọi là Huỳnh đình cung (sân rồng) nơi văn võ bá
quan cùng vua họp bàn việc nước, điều khỉển lục bộ như ngoại giao,
giáo dục, công chánh, kinh tế, nội vụ,y tế....Vì thế khi thở ý tập
trung ở đây (ý là vua) theo dõi, kiểm soát, điều chỉnh sự hoạt động
của lục phủ ngũ tạng lúc nào cũng được tốt thì cơ thể luôn luôn
khỏe mạnh. Nếu vua (ý) ở Nê hoàn cung mê say với cung tần mỹ nữ thì
quốc gia sẽ loạn, ví như ý tập trung ở đầu, cơ thể sẽ bị bệnh, tẩu hỏa
nhập ma, áp huyết cao, mất ngủ, điên loạn... Cho nên khí công chữa
bệnh chỉ nên tập trung ý theo dõi hơi thở ở Đan điền thần để chuyển
hóa âm dương, giúp lục phủ ngũ tạnh luôn hoạt động tốt để cơ thể khỏe
mạnh không bệnh tật. Đây cũng là một phương pháp thiền để tăng cường
sức khỏe, không xuất hồn lên bộ đầu sẽ làm tăng áp huyết, không tập
trung nhiều ở Chơn khí huyệt sẽ thành qủy dâm dục...

3-Khoảng cách từ tim xuống điểm nối 2 qủa thận dài 8 thốn 4, Hư
vôhuyệt lý, trung tâm lư đảnh ở giữa chiếm 1 thốn 2.

4-Thận là nói chung, nhưng chức năng chứa lọc nước gọi là thận thủy để
đối đãi với tim cho sức nóng ấm cho cơ thể goi là tâm hỏa, dùng danh
từ hỏa thủy là có ý nghĩa về sự biến hóa của trời đất, mặt trờ nóng
giao hòa với quả đất bằng cách đưa sức nóng xuống mặt biển, lúc nhiều
lúc ít để nước nóng bốc hơi thành mây, nước biển cạn gọi là thủy triều
xuống, mây tụ lại thành mưa trả nước về cho biển gọi là thủy triều
lên, đó gọi là sự biến hóa hỏa thủy của thiên nhiên vũ trụ, trong con
người cũng do tâm hỏa thận thủy chuyển hóa gọi là sự khí hóa làm lục
phủ ngũ tạng hoạt động điều hòa.

Thân
doducngoc

Nhân điện không phải nội lực

Chào ông Ngọc,
Tôi được may mắn đọc được trang Web về Khí Công Y Đạo cuả ông. Tôi rất cảm phục về sự hiểu biết rất nhiều cuả ông về Y lý, huyệt đạo và rất ngưỡng mộ về những việc cứu người thoát khỏi nhiều bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên có vài điều tôi không rõ xin ông vui lòng giải thích thêm để tôi đuợc biết rõ thêm. Trong mục Vuốt huyệt truyền khí ông có nói như sau:
Hình thức nhân điện truyền vào huyệt bệnh nhân cũng thấy kết qủa hơn châm bằng kim, nhưng thầy nhân điện bị bệnh nhân thu hết điện theo nguyên tắc bì́nh thông nhau, nhân điện không phải nội lực, nên thầy có sức khỏe rồi cũng yếu dần, thầy càng chữa nhiều người thầy càng mất sức nhiều, nếu chữa nhiều người thì́ khí lực của bệnh nhân và thầy thuốc san bằng nhau, hai người đều bệnh, các bệnh nhân được chữa sau cùng không khỏe mà cọ̀n bị bệnh của thầy thuốc truyền sang.
Tôi xin được hỏi là:
1-Nhân điện không phải là nội lực, thế thì Khí lực người Thầy Nhân điện ở đâu mà có để trị bệnh.
2-Mà mất sức thì làm sao Thầy Nhân Điện phục hồi lại sức khoẻ
3-Nếu người bệnh sẽ bị bệnh của thầy Thuốc truyền sang thì không lẽ Thầy Nhân Điện đã bị nhiều thứ bệnh (vì trị nhiều người)
Xin ông vui lòng giải thích rõ
Cám ơn ông,
Dang, Ba HungLockheed Martin Aeronautics CompanyF-16 Harness Installation
Xin được trả lời 3 câu hỏi của ông như sau :
1-Nhân điện không phải là nội lực, thế thì Khí lực người Thầy Nhân điện ở đâu mà có để trị bệnh.
Trong người ai cũng có nhân điện tối thiểu mới khỏe mạnh không bệnh tật, người có ít người có nhiều, năng lượng nhân điện ấy được cung cấp từ thức ăn và hơi thở. Khi năng lượng dư thừa, nó phát ra bàn tay ấm nóng, nếu dư qúa hóa nhiệt làm cao áp huyết. Nếu một thầy nhân điện, hôm nào mệt mỏi, bình hết điện, mà được người bệnh cao áp huyết truyền sang thì người sẽ ấm nóng hơn lên, và người cao áp huyết dư thừa nhân điện sẽ bớt nhiệt. Đấy là nguyên tắc bình thông nhau.
Nhân điện có nhiều cảm nhận khác nhau, trung bình một người khỏe mạnh, số lượng ion âm dương trong cơ thể quân bình , thí dụ 100 ion âm, 100 ion dương. Khi cơ thể bệnh sẽ mất sự quân bình như dư âm, dư dương, thiếu âm, thiếu dương.
Nhân điện được cảm nhận bằng nhiệt, nếu bàn tay ấm nóng, mà không có bệnh tim mạch áp huyết hay táo bón, đó là người có nhiều nhân điện. Ngoài cách giải thích bằng ion, người ta còn gọi là tĩnh điện, sẽ trở thành động điện khi bàn tay di chuyển nhanh như nắm tay vào qủa đấm cửa, tự nhiên xẹt lửa như điện giựt.
Đó là nhân điện tự nhiên không do tập luyện, không chữa bệnh được, sẽ bị hao mất điện.
Còn nhân điện do luyện tập có nhiều cách khác nhau và có nhiều trình độ khác nhau :
1-Trường sinh nhân điện của Thầy LMĐ lúc đầu dạy cho người ta vô tâm (chân không, ở thể tĩnh điện ), người bệnh thiếu năng lượng thì hút vào, dư năng lượng thì nhả ra, tự nhiên số ion trong cơ thể được quân bình, cảm thấy khỏe. Nếu người thầy nhân điện có trữ lượng ion trong cơ thể do tập luyện được 1000 ion âm và 1000 ion dương, thì có cho đi truyền vào những người bệnh bình thường trên dưới 100 ion âm dương, thì chẳng đáng kể. Nếu đo được số lượng ion của thầy cấp 3 sẽ ít hơn thầy cấp 5, 6. Bây giờ Thầy LMĐ dạy đến cấp 13, bắt buộc phải tập thiền mới thu nạp được năng lượng nhiều, và biết cách xả độc tố khi chữa bệnh cho người khác. Một người thiền đúng có rất nhiều năng lượng, nhân điện chỉ là một phần trong số năng lượng ấy.
2-Năng lượng trong con người từ đâu mà có :
Giải thích theo sự cấu tạo chất trong vũ trụ, thì thân xác con người cấu tạo bằng vật chất như xương cốt da thịt từ thức ăn do đất sinh ra, khi chết đi da thịt tan rã trở thành đất. Như vậy yếu tố đầu tiên tạo ra con người là chất thổ, trong con người có các dịch chất và máu là chất thủy, con người cần không khí để thở giúp hệ hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết.. đó là chất khí, con người cần có một hệ thống dây nối và hệ chỉ huy điều hành cho 3 chất trên hoạt động duy trì sự sống, tạo ra năng lượng hơi ấm cho cơ thể là chất điện, nếu chỉ có 4 chất này thì cũng giống như con vật, nhưng con ngườì còn thêm một chất nữa mà con vật không có, đó là sự thông minh sáng suốt, biết đúc kết những kinh nghiệm, nhưng suy tư, những tư tưởng phân tích tổng hợp, lưu trữ, phát minh.. đó là chất quang.
Trong 5 chất này cũng có âm dương, âm là vật chất thấy được, dương là chất không thấy được, như vậy thổ âm là thức ăn (thấy được) biến thành thổ dương tạo ra sự khỏe mạnh, thủy âm là dưỡng trấp biến thành thủy dương là hồng cầu bạch cầu trong máu, khí âm là hơi thở, khí dương là năng lượng, điện âm là hơi ấm, sức nóng của qủa tim và thân nhiệt, điện dương là từ trường năng lượng tạo ra thần sắc, tinh thần và bộ não. Tập khí công chuyển hóa khí âm (hơi thở, và khí của thức ăn) thành khí dương, từ khí dương tích lũy chuyển hoá thành điện âm, dư thừa nữa thì khí dương và điện âm chuyển hóa thành điện dương, là điện năng, có những cách tập mà con người dùng tay làm cháy sáng bóng đèn tức là điện sinh quang, hoặc đốt cháy tờ giấy, là điện sinh hỏa, ngoài ra điện phát sinh ra điện từ trường, có thể phát sóng từ trường, cao hơn nữa nhận được sóng thông tin tầm xa ngoài không gian vào não bộ để xử lý, phân tách để học hỏi như các vị cao tăng, thiền sư, các nhà tâm linh, tiên tri..
3-Về quy luật chữa bệnh:
a-Nếu bệnh do chất thổ làm hỏng chất thổ như đứt gẫy tay chân, cơ thể gầy ốm , khi chữa mà dùng cùng chất với nó thì ít hiệu qủa hơn là dùng những chất cao hơn nó. Thí dụ uống thuốc viên là chất thổ, kém hiệu nghiệm hơn thuốc nước là chất thủy như thuốc chích.
b-Nếu chất thủy (máu) bị bệnh nhiễm trùng, dùng chất thấp là thuốc viên thuộc thổ không hiệu nghiệm bằng thuốc chích hoặc vào nước biển hoặc lọc máu truyền máu có hiệu qủa nhanh hơn thuốc viên là chất thổ. Nhưng nhanh hơn nữa là dùng chất cao hơn thủy là chất khí, tập thở và uống nước để lọc máu và dùng khí chuyển hóa, tây y và đông y không có phương pháp dùng khí, mà phải tập thở khí công.
c-Nếu khí bị bệnh, như ho suyễn, thuốc thuộc chất thổ, chất thủy, không hiệu nghiệm, phải dùng chất khí hay chất cao hơn nó là chất điện hay chất quang mới mau hết bệnh. Đối với tây y, chất khí là cho hít bình thở oxy, chứ không có phương pháp dạy cho bệnh nhân tập thở, cao hơn khí là điện, cho chạy điện đốt cháy thịt dư vướng cổ hay virus viêm nhiễm trong cổ, trong phổi, cuống họng. Bệnh phong thấp đau nhức thuộc khí ( tây y chưa chữa được bằng thuốc), phải chữa bằng khí công hay chạy điện, tia hồng ngoại..
d-Nếu bệnh thuộc về điện như thần kinh chạm mát, bị điên, thuốc thuộc chất thổ, thủy, khí, không chữa được, phải dùng chất điện và chất quang, tây y chưa có phương pháp dùng điện quang tia laser để chữa bệnh thần kinh. Nhưng tất cả mọi chất bị bệnh, có thể dùng một chất cao nhất là chất quang chữa được mọi bệnh .
Chất quang ở đâu mà có, do tĩnh tâm, tâm bình thế giới bình, do niềm tin tôn giáo, do biết định tâm, ngồi thiền, hoặc được chữa bởi bác sĩ tâm lý thần kinh tạo cho bệnh nhân một niềm tin để thư giãn thần kinh, hết lo lắng, sợ hãi, ám ảnh của khổ đau, bệnh tật…
Đối với đạo Phật, bệnh tật, khổ đau do vô minh, hiểu được vô minh, diệt được vô minh mới hết bệnh hết khổ (trong Bát nhã tâm kinh ).
Đối với Tây y hiện nay đang chữa những căn bệnh nan y như ung thư, vừa thuộc thổ (bướu, sưng viêm..), thuộc thủy (hồng cầu bạch cầu xáo trộn, nhiễm trùng), thuộc khí ( khó thở), thuộc điện (thần kinh suy nhược, đau đớn, mất ngủ), thuộc quang (trí nhớ kém ). Cắt bỏ chỉ tạm thời chữa ngọn tránh lây lan không chữa được gốc bệnh. Chạy hóa trị, xạ trị làm cơ thể đau đớn và suy nhược thêm. Nếu dùng quang để chữa bằng cách tĩnh tâm ngồi hay nằm thiền theo dõi hơi thở, thì thiền là chất quang, định là chất điện, theo dõi hơi thở là tạo khí lực thúc đẩy sự tuần hoàn khí huyết, chuyển hóa thức ăn thành chất bổ, uống nước là chất thủy để thanh lọc độc, ăn chay là chất thổ tốt lành ít độc hại, dễ chuyển hóa. Ông Oshawa bị ung thư phổi cũng nhờ cách này mà khỏi bệnh.
4-Nói theo khoa học, nếu chúng ta muốn có nhà máy điện phải có đủ 3 yếu tố, vật chất (thổ) chế ra trục quay đập chứa nước, guồng quay và dây dẫn điện, nguồn nước là một thác nước ( thủy) và chất khí để tạo ra lực đẩy, đó là độ cao của thác. Nước từ độ cao đổ xuống tạo ra khí lực tạo thủy lực phát động guồng quay truyền vào đông cơ phát điện, từ điện năng có thể biến thành nhiệt năng, cơ năng, quang năng.. do đó con người làm ra được mọi sản phẩm từ điện.
Cũng vậy : trong cơ thể, huyệt là một điểm nhạy cảm như lõi nam châm, mỗi huyệt như một thác nước có độ cao khác nhau tạo ra lượng điện từ trường khác nhau, bàn tay đặt trên huyệt là sơi dây đồng quấn quanh lõi nam châm, hơi thở tập trung vào huyệt ấy là khí lực tạo ra thủy lực, phát sinh ra điện truyền đi khắp cơ thể. Do đó khi cơ thể bệnh, tâp khí công tự chữa bệnh là tập tạo ra điện để chữa bệnh do các yếu tố gây bệnh là điện, là khí, là thủy, là thổ, đều có kết qủa. Ngoài ra, nếu không bệnh tật, tập khí công phát sinh điện năng, mà điện năng không mất sẽ biến thành quang năng, phát sinh trí tuệ, thông minh, phát sinh từ trường hào quang, tạo ra bàn tay ánh sáng để chữa bằng quang năng..
Nhân điện như vậy cũng chỉ là một phần trong qúa trình chuyển hóa chất từ thổ sang thủy, sang khí, sang điện, sang quang. Đi từ dưới lên đến quang là do tập luyện, cao hơn nữa là phát sóng thông tin ra không gian, may mắn nhận được các tín hiệu không gian khác truyền lại trở thành kỳ nhân. Có những người rủi ro té ngã chấn thuơng sọ não, tự nhiên phát sóng thông tin hoặc nhận được sóng thông tin, trở thành người tiên tri, thầy thuốc chữa bệnh đặc biệt…
2-Mất sức thì làm sao Thầy Nhân Điện phục hồi lại sức khoẻ

Khi cơ thể mất sức, mất năng lượng điện do khí huyết bị xáo trộn bất bình thường, theo quy luận chữa bệnh của đông do chất thủy và chất khí hao hụt không cung cấp đủ chất liệu cho chất điện làm thần kinh bị suy nhược mệt mỏi. Để đền bù sự hao hụt này, chúng ta phải bổ sung 2 chất thủy và khí. Bổ sung chất thủy bằng cách uống nước như nước lạnh, nước cam, chanh. Chất khí là tập điều chỉnh lại hơi thở đều. Và điều quan trọng, bệnh ở chất điện do mất quân bình điện âm điện dương, nên điều chỉnh lại chất điện từ động điện trở lại tĩnh điện 0 không âm không dương, đó là lúc chất cao hơn điện là chất quang là từ trường năng lượng vũ trụ vào cơ thể nhiều nhất. Đó là phương pháp tĩnh tâm của Công Giáo, hay phương pháp thiền tĩnh lặng của Phật Giáo, chính lúc ngủ nghỉ cũng là một hình thức thiền vô tâm sơ đẳng nhất để phục hồi lại năng lượng. Đối với khí công chữa bệnh, ở thế dương động là sinh hóa, ở thế âm tĩnh là chuyển hóa.
Uống nước là một chất điện giải, là đem thủy âm vào cơ thể đươc chuyển hóa thành thủy dương, từ thủy dương được sinh hóa thành khí âm (dưỡng trấp) được hơi thở chuyển hóa thành khí dương, khí dương chuyển hóa thành điện âm, tĩnh lặng sẽ chuyển hóa thành điện dương, điện dương lại sinh hóa chuyển hóa thành quang âm là chất bổ sung phục hồi chức năng thần kinh hoạt động mạnh trở lại, sức khỏe sẽ được phục hồi.
Nếu thầy nhân điện biết nguyên tắc này thì không bao giờ mất sức, và phương pháp này chính là phương pháp khí công sơ đẳng. Ngược lại, thầy nhân điện chỉ cho điện từ cơ thể mình sang người khác theo kiểu bình thông nhau mà tưởng là năng lượng vũ trụ, hay do phép lạ, mà cơ thể của thầy nhân điện càng ngày càng mất sức, mệt mỏi suy nhược là không đúng, ngoại trừ trường hợp người cho điện vô tâm, tâm không động, tâm từ bi muốn giúp người vô vụ lợi, là lúc năng lượng của người cho đang tự chuyển hóa để chữa bệnh cho chính bản thân mình trước, có dư thừa mới sang bệnh nhân, cho nên người cho điện không bao giờ mất sức mà còn khỏe thêm, vì mỗi lần cho điện là mỗi lần chính người cho đang tập thu nhận năng lượng vũ trụ ở thể tĩnh. Nếu bệnh nhân ở thể động sẽ không nhận được năng lượng của người cho, nên cơ thể không thấy thay đổi, ngược lại bệnh nhân cũng ở thể tĩnh, sẽ cảm nhận nguồn năng lượng trung tính từ người cho vào cơ thể. Nên phương pháp chữa bệnh của khí công, cả thầy chữa và bệnh nhân đều phải dùng ý tập trung trong thời gian chữa bệnh mới có kết qủa.

3-Nếu người bệnh sẽ bị bệnh của thầy Thuốc truyền sang thì không lẽ Thầy Nhân Điện đã bị nhiều thứ bệnh (vì trị nhiều người)

Như đã giải thích về nguyên tắc sinh hóa và chuyển hóa những chất liệu trong cơ thể. Nếu Thầy Nhân điện không biết nguyên tắc này, thì khi chữa những người bị nhiễm trùng như bệnh cúm, thì chính bệnh nhân đã truyền bệnh cúm cho thầy nhân điện như vậy thầy nhân điện cũng đã bị nhiễm bệnh cúm rồi lại chữa để truyền bệnh sang cho nhiều người khác.Riêng môn khí công chữa bệnh, mỗi ngày có thể chữa mấy chục loại bệnh khác nhau, từ bệnh cảm cúm lây nhiễm đến những bệnh nan y khác, từ ngày này sang ngày khác không mệt mỏi, mà thầy chữa vẫn luôn luôn khỏe mạnh, hồng hào, không bị lây nhiễm nhờ biết phương pháp sinh hóa chuyển hóa các chất trong cơ thể bằng động công và phương pháp thở thiền .
4-Làm sao có nội lực :
Nội lực trong cơ thể chính là sự sung mãn chất âm dương của mỗi thể, từ thể thổ là hình tướng bên ngoài cơ thể, là sức mạnh của cơ bắp, gọi là thể lực. Nhưng nội lực là lực tích lũy được từ các thể, ở thể khí là khí lực, ở thể điện là thần lực, ở thể quang là huyền lực.
Muốn có được các loại nội lực này cần phải tập luyện hoặc tu luyện mới có. Dùng nội lực của hơi thở để vuốt huyệt là khí lực cao hơn một người vuốt huyệt bằng sức mạnh cơ bắp (thể lực), nhưng một người vuốt huyệt rất nhẹ nhàng mà tập trung tinh thần ý chí trong thao tác làm chuyển dịch những ions âm dương trong cơ thể để bệnh nhân khỏi bệnh nhanh thì gọi là thần lực (magic), nếu không cần đụng vào cơ thể bệnh nhân, chỉ dùng tâm đức khi chữa mà bệnh nhân khỏi bệnh gọi là huyền lực (miracle), các nhà tu hành cao tăng đắc đạo mới có huyền lực. Tập luyện môn khí công y đạo sẽ đạt được thần lực, nhưng tu tâm dưỡng tánh, phát triển cả y thuật và y đức, phát tâm làm công tác thiện nguyện lâu dài thể hiện tình thương giúp đỡ bệnh nhân vô vụ lợi, mới có được huyền lực.
Thân ái chào tạm biệt.

doducngoc