Thứ Ba, 9 tháng 8, 2011

Đau đầu kinh niên

Kính thưa thầy,
Trước hết chúng chúng con xin chúc thầy luôn khoẻ mạnh để giúp đỡ cho nhiều người thoát đau đớn, mang lại vui tươi cho mọi người. Chồng con sau khi bị té trong sở làm hôm 13/7/1907, nằm hôn mê bất tỉnh hơn 10 tiếng, mới được phát hiện đem đi cấp cứu ,và máu tràn vô não quá nhiều nên phải mổ để lấy máu ứ ra, khoảng 4 tiếng ,sau khi mổ xong khoảng 2 tiếng sau thì anh ấy tỉnh lại và nhận biết ra mọi người ,nhưng tay chân sau đó phải đi vật lý trị liệu khoảng 1 năm mới đi đứng lại bình thường , nhưng thỉnh thoảng vẫn bị mất thăng bằng, còn đầu thì luôn nhức như búa bổ.


Bác sỹ cho anh ấy đi vật lý trị liệu nhưng cứ mỗi lần tập mà cử động đụng chạm đến cần cổ là nhức đầu dữ dội ,và tê buốt đau 3 ngón tay giữa và tê luôn tới các ngón chân. Do bị đau đầu nhiều nên tính tình anh ấy cũng thay đổi nhiều, hay cáu gắt, đánh đập la hét với các con làm các cháu rất buồn ,còn lái xe thì không được do nhức đầu và tê tay, và bác sỹ không cho đi máy bay vì sợ là thay đổi áp xuất sẽ làm đau đầu nhiều. Nhờ thầy hướng dẫn cho chồng con cách tập luyện sao cho anh ấy khỏi được đau đầu thì gia đình con vui sướng và hạnh phúc biết bao ! Chúng con rất mong nhận được hồi âm của thầy, hy vọng là có dịp chúng con được giáp mặt với thầy để được chỉ dẫn nhiều.
Kính Tuyết Hồng
Trả lời : 
Xin xác nhận lại năm bị tai nạn là 2007, nếu là 1907 thì cụ năm nay 102 tuổi thì khỏe hơn tôi rồi !!!
Nói cho vui thôi. Hiện nay trong cơ thể còn hai vấn đề chưa hoàn chỉnh :

1-Còn ứ đọng máu trong não, theo khoa học, vòng tuần hoàn tim mạch giữa máu đen và máu đỏ, ra khỏi tim và về tim có 2 vòng, vòng lên não và vòng đi khắp cơ thể ra tay chân. Vì máu não còn bị tắc nghẹt sẽ có ảnh hưởng máu không ra đến được đầu ngón tay đầu ngón chân, lúc đó sẽ làm cho áp huyết bị tăng cao. Theo khí công, áp huyết bị tăng cao do
thần kinh ngoại biên bị co thắt làm hẹp ống dẫn máu không ra đến đầu ngón tay chân, khiến đầu ngón tay chân tê, lạnh, đau, uống thuốc giảm đau vô ích vì không phải là chữa gốc, cần phải đo áp huyết ở hai tay, hai chân, xem bên nào cao bên nào thấp.

Làm cho thông máu tuần hoàn ra đầu ngón tay ngón chân, bằng cách dùng cây kim thử tiểu đường, mình tự châm nặn máu vào thập tuyên và thập nhị tĩnh huyệt mỗi ngày. Có những dấu hiệu xảy ra như sau : có ngón nặn không ra máu do thiếu máu, có ngón nặn ra máu bầm do thiếu oxy, có ngón ra hết máu bầm rồi tắc không ra nữa do đường kinh còn bị tắc nghẹt, có ngón ra hết máu bầm rồi ra mau đỏ loãng là đường kinh đã thông, có ngón ra máu đỏ mà còn đặc do trong máu có nhiều chất vôi, có ngón ra máu hồng lẫn vàng như huyết thanh là do trong máu có mỡ. Dù trường hợp nào xảy ra, ngày nào cũng phải châm nặn máu, mỗi lần châm nặn máu phải thay kim mới, cuối cùng khi máu ra đầu ngón tay phải là máu hồng, loãng, ra dễ dàng, cần nhất là máu ở ngón chân út, huyệt Chí Âm, lúc đó máu trên não hết bị tắc nghẹt sẽ hết bị đau đầu. Đo lại áp huyết sẽ thấy bình thường.
Các động tác châm nặn máu là để giải tắc, sau đó đến động tác thông, kích thích tuần hoàn máu ra đến đầu tay chân bằng cách nằm ngửa, hai cánh tay xuôi theo thân mình, bàn tay ngửa, mình giúp cho bệnh nhân, đề bàn tay mình vào cổ tay bệnh nhân, bảo bệnh nhân khi hít vào, năm chặt bàn tay lại, cùng lúc mình đè ấn mạnh xuống cổ tay bệnh nhân để giúp bệnh nhân nắm chặt bàn tay lại hơn bình thường, khi thở ra thì bệnh nhân buông xòe bàn tay ra và mình cũng bỏ ra không ấn đè cổ tay nữa, tiếp tục nắm chạt tay hít vào, buông bàn tay thở ra có sự trợ giúp ấn đè cổ tay, 30 lần mỗi bên tay, bệnh nhân sẽ cảm thấy hết tê đầu ngón tay, nắm đồ vật được chặt hơn, đầu ngón tay nóng ấm, đỏ hồng, áp huyết xuống, hết đau cánh tay.

2-Tình trạng thần kinh ngoại biên bị có thắt lâu sẽ co rút gân bả vai và cứng cổ gáy, bệnh nhân ngồi trên ghế, mình vuốt nhẹ từ hõm gáy theo giữa xương cổ xuống từng đốt xương lưng ngang đến đoạn sau tim tìm những điểm đau, dùng kim châm tiểu đường châm nặn máu vào những điểm đau ấy, cũng có những chỗ ra máu bầm đen, máu cục, sau đó dùng ngón tay cái day lại những điểm đau cho đến khi hết đau, và tập cúi ngửa đầu ra sau dần dần cho đến khi cúi ngửa được dễ dàng sẽ hết đau đầu. Sau đó bệnh nhân tự tập thể dục khí công, để ý trong 40 bài, bài nào tập được, bài nào không tập được. Những bài không tập được là cơ thể còn bị bệnh, tập được hết 40 bài là cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh bình thường hết bệnh tật.

3-Trường hợp đo áp huyết thấy thấp, cần phải uống thuốc Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin) để đủ máu nuôi não. Thuốc này cũng chữa được bệnh áp huyết thấp làm cho đau đầu kinh niên sau trở thành ung thư não, có khối u bướu trong não.
Xem và tập theo bài tập trong link này :

Những động tác mới trong bài tập thể dục khí công trong lớp ở Toronto
http://www.youtube.com/watch?v=jm_Kh8wGEuE
Công dụng chữa bệnh của bài tập kéo đầu gối thở ra làm mềm bụng
http://www.youtube.com/watch?v=Y3jeaiJMF_o
Công dụng chữa bệnh khác nhau của p.p.vuốt huyệt trên lưng lý luận
theo ngũ hành (Nhà thờ Bélanger, Montréal)
http://www.youtube.com/watch?v=P6qFeqM45Vo
Tập khí công thiền luyện hơi thở thu dương, thu âm. (Nhà thờ Bélanger,
Montréal)
http://www.youtube.com/watch?v=UsbbThxWCEk

Thân
doducngoc



Cách chữa ung thư theo phương pháp khí công

Đông y chú trọng đến sự tuần hoàn của khí và huyết. Nếu sự tuần hoàn của khí huyết bị trở ngại, không đều đặn bình thường khiến tuần hoàn yếu qúa, mạnh quá, bị tắc nghẹt không thông gây tích tụ khí huyết tại một chỗ làm đau, lúc đó bệnh mới phát sinh, đông y phải tìm ra nguyên nhân chữa tận gốc để phục hồi lại sự tuần hoàn khí huyết trở lại bình thường thì bệnh sẽ khỏi.

Bệnh ung thư cũng không ngoại lệ, khối ung thư là những nơi khí huyết
bị tích tụ lâu dần đóng thành hòn cục. Đối với đông y, khi khí huyết mới bị nghẹt tích tụ bất cứ nơi nào trong cơ thể chưa thành hình khối u, thầy thuốc bắt mạch cũng đã biết được nguyên nhân từ đường kinh nào hay từ tạng phủ nào, và hậu quả ấy cũng đã để lại những dấu hiệu lâm sàng của bệnh lý, từ đó các thầy thuốc đông y chỉ cần điều chỉnh lại sự tuần hoàn khí huyết trở lại bình thường cho đến khi hết hẳn những dấu hiệu bệnh, nên khối u không thể thành hình, trừ trường hợp những dấu hiệu bệnh bị bệnh nhân bỏ qua, mặc dù có đi khám tây y không tìm ra sớm được, tây y chỉ phát hiện qua thực thể thấy được qua xét nghiệm khi khối u đã thành hình thì đã quá muộn.

Trong trường hợp này, phương cách chữa trị của tây y và đông y đều cần
phải có thời gian điều trị liên tục.

Phương cách của tây y là cắt bỏ, dùng hóa trị liệu hay phóng xạ trị liệu tấn công thẳng vào khối u, để lại những di chứng làm bệnh nhân đau đớn, không ăn uống được, không ngủ được, mất sức không chịu nổi cho đến chết không phải do ung thư mà do hậu qủa trong điều trị.

Đối với đông y, cho dù bệnh phát hiện muộn màng, nhưng vẫn không có gì
đáng ngại, may mắn là đông y không hù dọa bệnh nhân bằng cái tên dễ sợ
làm chết người là bệnh cancer, và đông y không cần chữa theo cách hóa
trị liệu hay phóng xạ trị liệu, vì sau đó vẫn còn những biến chứng ngấm ngầm làm bệnh tăng lên do các kinh mạch tuần hoàn khí huyết bị tắc mà tây y chưa phát hiện được.

Cổ nhân đơn giản hóa các bệnh tật, chỉ cho rằng hễ ăn được ngủ được là
tiên, không ăn không ngủ mất tiền thêm lo. Thực tế đối với các thầy thuốc đông y, chữa bệnh là điều chỉnh lại sự tuần hoàn của khí huyết kinh mạch, nên chỉ cần hỏi bệnh nhân những điều sau đây để tìm phương pháp điều chỉnh cho có kết qủa nhanh nhất theo kinh nghiệm chuyên môn của thầy :
1-Ăn được không ? Nếu ăn không được, không muốn ăn, ăn không tiêu, ói
mửa… thầy thuốc sẽ điều chỉnh cho ăn uống ngon, tiêu hóa tốt.
2-Ngủ được không ? Không ngủ được do nhiều nguyên nhân, sẽ tìm ra nguyên nhân để điều chỉnh cho ngủ được.
3-Có tiêu tiểu được không ? Nếu không thầy thuốc sẽ điều chỉnh cho tiêu tiểu dễ dàng.
4-Có đau ở đâu không ? Nếu có đau sẽ điều chỉnh cho hết đau.
Nếu dựa theo 4 tiêu chuẩn này áp dụng vào mọi bệnh tật, dù bệnh thông thường hay bệnh ung thư cũng vậy. Bệnh nhân phải tự hỏi để đánh giá tình trạng bệnh của mình :

Thí dụ :
1-Ăn vẫn ngon, tiêu hóa tốt là không bệnh, còn ăn không được do lo lắng là tự mình bị hù dọa sinh lo sợ là tâm thần không vững, bệnh thuộc tinh thần chứ không phải thể xác…

2-Ngủ được là cơ thể không bệnh, không ngủ được do lo lắng là tại tự mình làm bệnh nặng thêm, ngủ không được do đau là tại thân bệnh, thầy
thuốc sẽ tìm nguyên nhân để chữa cho hết đau sẽ ngủ được, chứ không
phải chỉ dùng thuốc ngủ làm liệt thần kinh bắt nó ngủ li bì như chết, tỉnh dậy cái đau vẫn chưa được chữa sẽ càng làm mất ngủ và liều thuốc ngủ tăng dần đi đến suy nhược thần kinh.

3-Tiêu tiểu vẫn tốt là thân không bệnh, tiêu tiểu không tốt do ảnh hưởng của bướu làm ra, khi bón, khi tiêu chảy, khi ra huyết, lúc đó mới gọi là bệnh.

4-Có đau chỗ nào không, nếu không đau chỗ nào là không bệnh, mặc dù
tây y nói có bướu, thì bướu đó là bướu lành như khối u mỡ, hay nước.
Còn nếu đau cũng có sự khác biệt, chỉ đau một chỗ khi nhấn tay vào đau
nhiều hơn, là khối u đã mọc rễ do những sợi thần kinh dẫn máu bị tắc, sưng, thiếu máu lưu thông qua đó, hoặc nơi đó thiếu oxy đến làm chết tế bào sinh thối mục tạo huyết bầm, có mủ…đông y cần phải trục xuất những khối huyết bầm ấy ra khỏi cơ thể sẽ hết đau.
Nếu vẫn ăn được, ngủ được, tiêu tiểu được, không có chỗ nào đau, là
không có bệnh, thì uống thuốc chữa bệnh chỉ làm xáo trộn cơ thể sẽ có
phản ứng phụ sinh ra bệnh khác.
Đức Chúa nói: Tâm bình thế giới bình. Đức Phật nói : Vạn pháp do tâm
sinh. Vạn pháp do tâm diệt.
Áp dụng câu này vào bệnh tật, các bệnh dù có, nhưng tâm vẫn bình thản,
không lo lắng hốt hoảng bệnh sẽ tự điều chỉnh từ bệnh đến khỏi bệnh một cách dễ dàng.

Cách chữa bệnh có kết qủa nhanh là điều chỉnh Tinh-Khí -Thần bằng hơi
thở khí công, các bướu đều tiêu, các bệnh đều khỏi. Điều quan trọng khi tập luyện khí công không phải chỉ dùng cho giai đoạn chữa bệnh, mục đích chính của việc tập luyện khí công là giúp lưu thông khí huyết được điều hòa để không bao giờ bị bệnh, nên phải duy trì tập luyện hàng ngày để khỏi phải dùng đến thuốc.

doducngoc




Một bệnh lạ : Cột sống bị lủng lỗ làm dò tủy cần phải mổ để tránh tê liệt

Một nữ bệnh nhân kể bệnh sử, bà cảm thấy cứng cổ gáy gây đau nhức
xuống vai lưng. Đi bệnh viện khám, bác sĩ cho biết trên phim thấy có một đốt sống lưng trên nứt mọc nhánh đâm vào đốt sống ở dưới nên bị dò tủy (syrinx) chảy ra ngoài lan sang nhiều đốt cột sống khác thành từng bong bóng nhỏ rải rác dọc cột sống đốt C1,2,3.

Cách giải quyết theo tây y cần phải mổ cột sống, trám lại lỗ dò tủy, nếu không tủy tràn lên não hoặc mất hết tủy cột sống sẽ gây nguy hiểm đến tánh mạng. Bác sĩ cũng yêu cầu tránh đụng chạm đến cột sống, nếu không sẽ bị tê liệt bán thân bất toại. Tây y đặt tên bệnh này là Dị Tật Chiari bẩm sinh, Mal Formation.
Trong gia đình bà có 6 người là bác sĩ cũng khuyên cần phải đồng ý để
cho bác sĩ mổ ngay, và dọa rằng nếu đi châm cứu hay massage đụng đến
lưng là bị liệt ngay, khiến bà lo sợ, nên cái đau càng gia tăng, đêm nằm ngủ gân cổ căng cứng co rút đau không nhúc nhích cựa quậy được,
bác sĩ chỉ cho thuốc uống giảm đau, và cái đau cứ tăng dần theo ngày
tháng. Nhiều lần bà muốn đến với phương pháp khí công, nhưng đều bị
cấm cản.

Người nhà chia hai phe, phe đồng ý theo giải pháp tây y, còn phe kia muốn khuyến khích bà đi theo đông y khí công, với lý do phương pháp chữa bằng khí công giúp giảm đau mà không cần thuốc, trong khi bà đã sử dụng thuốc tây y nhiều nhưng bệnh mỗi ngày một đau nặng hơn khiến tinh thần khủng hoảng.
Cuối cùng bệnh nhân đến với khí công, có người con rể là luật sư đi giám sát cách chữa bằng khí công ra sao, và quan sát xem có đụng chạm làm tổn thương cột sống nơi bị đau hay không, và đặt những câu hỏi thắc mắc về cách chữa.  Tôi giải thích, nguyên nhân đau theo đông y  thường  nói “đau thì không thông, thông thì không đau”( thống bất thông, thông bất thống), như vậy có nghĩa là khí huyết đã bị tắc nghẽn không lưu thông trên một đoạn đốt sống. Tôi cũng yêu cầu bệnh nhân không cần chỉ nơi đau ở đoạn nào, và tôi cũng nói trước là tôi sẽ không ấn đè mạnh nơi đau, mà chỉ dùng máy đo oxymètre để đo khí và huyết trên từng đốt của cột sống, chỗ nào khí huyết thông, máy sẽ hiện lên đèn và con số đo được của máy, số bên trái của máy chỉ SpO2, đông y gọi là khí, số bên phải của máy vẽ trái tim, đông y gọi là huyết.

Máy chuyền một sợi dây gắn sensor để đo trên huyệt, máy này thường
dùng trong bệnh viện với bộ phận sensor là cái kẹp để kẹp vào đầu ngón
tay bệnh nhân, dùng để đo xem bệnh nhân có đủ oxy để thở hay không, nếu số đo bên trái SpO2 chỉ dưới 90, thì cần phải cho bệnh nhân thở bằng máy trợ thở tăng thêm oxy, nếu không, bệnh nhân sẽ bị ngộp thở làm mệt và rối loạn nhịp tim.
Tôi đặt sensor đo từ đốt đầu xương cổ chỗ hõm gáy sau ót xuống dần
đến đốt sống lưng trên, có đoạn máy hiện lên số, có đoạn máy câm,  không có số, chỉ hiện đèn báo mầu đỏ, tức là không bắt được tần số sóng của khí huyết chạy qua, chứng tỏ nơi đó khí huyết bị tắc không thông gây đau do thần kinh cột sống bị chèn ép.

Theo kinh nghiệm đông y khí công, nếu đau cổ gáy vai tay là nguyên nhân làm co rút thần kinh ngoại biên, hoặc ngược lại, thần kinh ngoại biên bị co rút sẽ làm cho áp huyết động mạch cảnh tăng, nên tôi cũng đo kiểm chứng áp huyết ở hai cánh tay, qủa nhiên tay trái cao 181/99mmHg mạch 89, tay phải thấp bình thường.
Ông luật sư khen cách tìm bệnh hay qúa, nhưng đặt câu hỏi là có chữa
được không và cách chữa làm sao, có phải đụng vào cột sống không, có
nguy hiển không, có làm cho bị tê liệt không…
Tôi nói, có 4 giai đoạn chữa theo thứ tự, thứ nhất, trước hết tôi phải hướng dẫn bệnh nhân tập thổi hơi ra làm hạ áp huyết để giảm áp lực
động mạch cảnh và làm thư giãn thần kinh ngoại biên, thứ hai làm thư giãn thần kinh cột sống, thứ ba làm thông khí huyết bằng máy kim châm tiểu đường, thứ tư hướng dẫn bệnh nhân tập khí công, rồi dùng máy đo áp huyết và máy đo oxymeter kiểm chứng lại kết qủa sau khi chữa.
Giai đoạn 1 : Làm hạ áp huyết
Bệnh nhân nằm ngửa, máy đo áp huyết đo ở bên tay đau, tôi xòe một bàn
tay đặt trước mặt bệnh nhân cách xa miệng bệnh nhân cao khoảng 50cm,
tôi bảo bà tập thổi hơi đủ mạnh vào bàn tay tôi, giống như thổi bếp củi cho lửa cháy, tay kia của tôi đặt ở bụng bệnh nhân, và dặn bà tập thổi làm sao tay tôi cảm thấy mát, cùng lúc khi bà thổi hơi ra thì phải chú ý làm cho bụng xẹp mềm xuống chứ không được gồng bụng, và giữa hai hơi thổi phải có thì nghỉ thư giãn, không được thổi gấp dồn dập . Cách thổi hơi ra để làm hạ áp huyết là cách thổi giảm dương xuống âm, thí dụ mức nằm ngang của bụng đang ở thì nghỉ là 0, khi thổi hơi ra bụng xẹp xuống được 3-5cmm là bụng xuống âm, khi thả lỏng thư giãn để hơi bụng tự phình lên trở về 0, tức là khi hơi vào là dương về 0 là dương trong âm, chứ không được hít vào để bụng phồng cao hơn mức 0, nếu bụng phồng cao lên là cách hít dương tăng lên dương là dương trong dương, nếu thở kiểu dương trong dương áp huyết sẽ tăng lên cao, thở vào như thế là đã dùng mũi hít hơi vào là sai, cách thở dương trong âm không dùng mũi hít vào.

Khi điều chỉnh hơi thở ra từ 0 xuống âm rồi từ âm lên 0 đúng cách, tôi bắt đầu đếm 1, nhìn bụng ở thì thở ra xẹp từ từ xuống, rồi cơ bụng và miệng thả lỏng chờ hơi vào tự nhiên để bụng phồng lên đủ, tôi đếm 2, bà lại thổi hơi ra, tôi đếm 3,….và đếm cho tới 20 lần thở ra .

Sau đó để bệnh nhân tự tập, hai bàn tay bệnh nhân để lên bụng theo dõi bụng xẹp xuống và phồng lên từ từ mỗi lần thở một cách nhẹ nhàng đều đặn, lúc đang tập, bấm máy đo áp huyết để kiểm chứng, áp huyết xuống dần từ 181 xuống 160, xuống 140, xuống 125/85mmHg mạch 75. Để bệnh nhân nằm thả lỏng không cần nghĩ đến hơi thở nữa, cứ thở bình thường tự nhiên, rồi đo lại thấy áp huyết vẫn ổn định dưới 130/90mmHg, mạch vẫn đều 75.
Giai đoạn 2 : Làm thư giãn giảm áp lực thần kinh cột sống
Bệnh nhân nằm úp, hai đầu gối hơi dạng ra hình con ếch, một bàn tay tôi đặt ở Mệnh Môn trên lưng bệnh nhân, bàn tay kia cầm cổ chân bên
phải bệnh nhân ép gót chân bệnh nhân vào từ từ chạm mông trong thì
thở ra của bệnh nhân để vừa giảm đau lưng và chân, nó còn có công  dụng làm giãn thẳng cột sống mà không đau ở thì thở ra, vừa làm thông máu cho Mạch Đốc từ dưới lên đầu, tập ép gót chân chạm mông ở chân phải 10 lần rồi đổi sang chân trái 10 lần, lại đổi sang chân phải, rồi chân trái… cho đến khi đoạn lưng trên hết cong cứng, và bệnh nhân không cảm thấy đau.
Giai đoạn 3 : Thông khí huyết bằng bút kim châm tiểu đường trên đốt
sống lưng.
  Bệnh nhân vẫn nằm úp, cho đầu ló ra khỏi đầu bàn, mục đích cho cột sống thẳng, tôi đứng phía đầu bàn, bôi dầu trơn trên cột sống dài
xuống xương khu, rồi bắt đầu vuốt nhẹ từ gáy theo cột sống dài xuống
xương khu để tìm điểm đau, hoặc bệnh nhân báo cho biết chỗ nào đau
khi ngón tay của tôi vuốt qua, khi xác định được điểm đau, dùng máy đo
oxymeter đo ở những điểm đau đó trước khi chữa, máy báo câm, sau dùng máy bấm kim tiểu đường bấm kêu tạch, tạch, tạch…vào mỗi điểm đau, không có máu chảy ra, và bệnh nhân cũng không cảm thấy gì khi bấm máy. Cho bệnh nhân tập trở lại giai đoạn 2 thì máu rịn ra như vết muỗi cắn, dùng bông gòn thấm cồn nặn máu ra, đông y gọi là chích lể, nặn máu xong, sát trùng, rồi đo lại bằng oxymeter, máy báo cả số và đèn hiệu
đo tần số sóng cho biết khí huyết thông hay còn tắc, thí dụ điểm trên chỗ đau bên khí báo 96, huyết báo 80, đèn báo hiệu màu xanh, đó là lý tưởng khí huyết đều thông, khi đo trên điểm đau thứ nhất vừa nặn máu, máy báo khí 80, huyết 60, đèn hiệu chớp màu vàng, cho biết điểm này còn hơi tắc, khí chưa qua đủ trên 90, huyết chưa qua đủ 70, điểm đau khác máy báo khí 80, huyết 120, đèn hiệu chớp mầu đỏ, chứng tỏ khí thiếu, huyết bị tích tụ làm sưng nên con số chỉ huyết mới tăng cao, phải nặn thêm cho máu ra ở điểm đó rồi đo lại, máy chỉ khí qua đó trên 90, huyết được thông còn 80, chớp đền hiệu mầu xanh là đoạn đó đã thông.
Ông luật sư quan sát thấy những thao tác rất nhẹ nhàng, tôi hỏi bà có
cảm thấy đau không, bà trả lời không thấy đau, lưng và cột sống thấy
nhẹ, dễ chịu.
Giai đoạn 4 : Tập khí công duy trì cho khí huyết lưu thông để ngừa bệnh không bị tái phát.
Giai đoạn thông huyệt và giải tắc đã xong, nhưng muốn khỏi được bệnh và ngừa bệnh không bị tái phát, bệnh nhân cần phải được hướng dẫn tập
luyện mỗi ngày để cơ thể tạo ra thuốc nội dược tuơng đương với thuốc
ngoại dược nhưng không sợ bị những phản ứng phụ như ngoại dược.

Mục đích làm khí huyết lưu thông dễ dàng, đều đặn khắp cơ thể, giảm đau,
ăn ngủ được, tiêu hóa tốt. Bệnh nhân nằm ngửa tập bài Kéo Ép Đầu Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng ở thì thở ra, mỗi bên chân kéo 1 lần, thay đổi chân này rồi chân kia, tập kéo 100 lần liên tục không nghỉ, một ngày có thể tập hai lần mới đủ liều thuốc chữa bệnh.

Sau một tuần bệnh nhân trở lại, bà cho biết, khi về nhà thấy khỏe và dễ chịu làm sao, người nhẹ, tay chân cử động hết đau, như hồi chưa bị bệnh. Tôi hỏi bà sao lần này không có con rể bà đi theo quan sát. Bà cười nói : Nó tin rồi, nó khen thầy chữa hay qúa, không cần phải đến quan sát nữa. Mấy đứa con bác sĩ trong nhà chúng nó cứ hăm mẹ không được đi chữa khí công, đụng vào lưng mẹ là mẹ bị tê liệt ngay đó.
Sáu tuần lễ trôi qua, bà cho biết các con bác sĩ ở bên Mỹ ngày nào cũng gọi điện thoại hỏi thăm, bà đã nói thật, đã chữa bằng khí công và bây giờ thấy khỏe, hết đau, ăn ngủ ngon, cúi ngửa lưng cổ được dễ dàng, cầm được những vật nặng trong tay mà không bị đau và không bị rớt như trước. Đối với bà, nhờ khí công bà không còn phải lo sợ mổ cột sống, đối với các bác sĩ con của bà thì họ ngạc nhiên như đứng trước một con đường lạ, không biết nên tin hay không ?

Xem thêm   Bệnh Mal Formation Arnold Chiari (CMs)










Chữa ung thư vòm họng

Kính chào Thầy Ngọc ,
Con có người chị dâu, 54 tuổi, nội trợ, sống vùng thôn quê. Ban đầu, chị con bị ù tai. Sau đó, Chị con bị hạch ở cổ. Kết quả sinh thiết là K vòm hầu.

Hiện chị con đang chờ được điều trị tại bệnh viện Ung bướu Tp. HCM. Nay, con xin hỏi Thầy về trường hợp của chị con thì cách sinh hoạt, tập thể dục những động tác thể dục khí công nào là tốt nhất. Bởi con không rõ khi bị bệnh K có chống chỉ định xoa vuốt hay không. Con muốn giúp đỡ chị con nhưng nếu làm bệnh nặng hơn thì con mang tội. Có người chỉ dẫn uống nước lá đu đủ bệnh sẽ giảm. Con không biết có đúng vậy không? Nhân đây, con cũng xin trình bày với Thầy là: số người bệnh viêm mũi các loại rất nhiều. Con rất mong Thầy có chuyên đề về bệnh này và cách phòng chống K vòm hầu v.v... Cảm ơn Thầy rất nhiều. Con kính chúc Thầy nhiều sức khoẻ.

Trả lời :

Thân gửi Dung
Bệnh về họng, theo đông y cũng chia làm 2 loại hư chứng, thực chứng,
bằng cách dựa vào kết qủa xét nghiệm của tây y xem dư calcium hay
thiếu, nếu dư calcium thì đo áp huyết sẽ cao, thiếu calcium áp huyết sẽ thấp.

Phối hợp thêm với cách tìm nguyên nhân gốc bệnh của đông y, họng có liên quan đến kinh Tỳ Vị và kinh thận, thận âm tốt sẽ đưa khí đến cuống lưỡi làm cho lưỡi ướt ra nước bọt, kinh tỳ vị đưa lên họng làm ra nước dãi, khi mình nhìn thấy người khác ăn một món gì ngon mà mình thích thì mình sẽ bị thèm nhỏ nước dãi. 

Khi vòm họng bị viêm, chứng tỏ cổ họng khô không có nước dãi, nước bọt, thì bệnh thuộc tỳ vị và thận. Dựa trên hư chứng và thực chứng để bổ hay tả cho đường kinh ấy.

Bệnh thưc chứng do hỏa của tim vượng, áp huyết cao, làm khô cạn thận thủy, bao tử nóng, nên nước bọt nước dãi không có.

Bệnh hư chứng do chức năng tỳ vị và thận hư không đủ dịch chất để tạo ra nước bọt nước dãi lên họng.

Muốn chữa cả hai cách này là phải làm sao cho cổ họng có nước, bằng cách nằm thở thiền chú ý vào Đan Điền Tinh ở huyệt Khí Hải, cuốn lưỡi ngậm miệng, hát bằng mũi ư,ư,ư,ư,ư,ư,ư, tức là phát âm 1,2,3,4,5,6,7 (one, two, three, four, five, six, seven) trong cổ họng, tạo ra sự rung động tuyến hạch ở cổ họng giúp cổ họng tiết ra nước, rồi nuốt vào.

Đã có một trường hợp bệnh nhân ở Mỹ được tây y xét nghiệm kết luận ung thư lưỡi, bị dộp như bánh tráng, họng khô, lưỡi đỏ bầm, ăn và nói không được, người gầy ốm dần tưởng sẽ không còn sống được bao lâu nếu không ăn nuốt được. Đã sang Montreal tập khí công tự chữa bệnh. Nhờ tập cách này mà trong 1 ngày, lưỡi hết bị khô và phồng dộp, ngày hôm sau ăn uống nói năng bình thường được, cô ấy trở về Mỹ tiếp tục bài tập thở khí công này, bây giờ đã bình phục. Nếu muốn chữa bằng huyệt, vuốt từ Chiếu Hải lên Thái Khê ở hai bên cổ chân trong 36 lần, mỗi ngày vuốt 3 lần.

Kiêng ăn thức ăn cay nóng, khó tiêu, không nên uống nước lá đu đủ, vì
chưa rõ tính chất âm dương của bệnh và của thuốc để chữa chứng hư hay chứng thực, tránh trường hợp tối kỵ của đông y là hư làm thêm hư, thực làm thêm thực, dân gian gọi là chữa lợn lành thành lợn qùe.

Tập uống nước, mỗi lần 1/2 ngụm, ngậm trong họng, cuốn lưỡi ngậm
miệng, xúc nước miếng 36 lần, rồi nuốt 1/2. xúc tiếp 36 lần, nước miếng lại trào ra đầy miệng, nuốt vào 1/2, lại xúc tiếp 36 lần rồi nuốt 1/2. Cách này gọi là cách luyện nước cam lồ. Ở VN đã có một bệnh nhân mỗi ngày uống 4-6 lít nước mà người vẫn ốn, da khô cằn cỗi, cổ họng khô khát bắt buộc phải uống nước nhiều, nhưng vẫn không hết bệnh, khiến ăn ngủ không được, bị nhiệt chứng, tâm thận bất giao, cơ thể suy nhược. Tôi đã chỉ cho phương pháp này, mới đầu bệnh nhân không tin.

Tôi bảo cứ làm thử 1 ngày đi, và đếm cho tôi biết anh đã nuốt được bao
nhiêu lần nước miếng. Ngày hôn sau bệnh nhân đến phòng mạch, da dẻ
hồng hào tươi nhuận, cổ họng hết khô, bệnh nhân khen phương pháp này
hay qúa, tôi đếm được gần 4000 ngụm ( tương đương với 4000cc nước = 4 lít nước) , bây giờ không còn phải uống nước nhiều, ăn ngon ngủ khỏe.
Sau đó bệnh nhân bắt đầu có sức khỏe để tập động công và tĩnh công
thiền để cơ thể tự điều chỉnh những chức năng tạng phủ hoạt động trở
lại tốt bình thường làm cho khỏi bệnh. Chị dâu của Dung nên bắt chước
phương pháp này rồi cho tôi biết kết qủa.

Thân
doducngoc

U sọ não

Chào thầy Đỗ Đức Ngọc.
Hôm nay, em có gặp 1 bác. Bác đó kể, có 1 cô con gái, cô ấy bị khối u
trên đầu & đã đi bệnh viện điều trị khối u bằng thuốc (ko mổ). Sau
khi, uống thuốc thì khối u tan biến, nhưng để lại hậu quả là gần như
là mù (Chỉ thấy mờ mờ & đôi khi ko thấy. Đã bị 10 năm). Xin thầy có
cách nào giúp người ấy chữa trị ko.

Trả lời : 1-Trước hết phải đi bác sĩ nhãn khoa xem có cách nào phục hồi theo tây
y được không, như nhỏ thuốc, hay cần phải mổ, giảm thị lực do chức
năng nào của mắt bị ảnh hưởng như tăng hay giảm áp lực nhãn cầu, nở
tròng đen, đục thủy tinh thể, hư gai thị, teo thần kinh thị giác, cườm
mắt…

2-Theo khí công, cần đo áp huyết 2 tay, tay nào cao, tay nào thấp, áp
huyết đủ hay thiếu.
Nhưng theo kinh nghiệm của khí công, trường hợp này do áp huyết qúa
thấp lý do thiếu máu từ lâu, không đủ máu lên nuôi não, làm đau đầu
một bên kinh niên gây ra khối u sọ não. Gốc bệnh là thiếu máu, cắt bỏ
khối u vẫn là chữa ngọn, chưa chữa gốc là cần phải bổ máu, tăng cường
khí huyết giúp đủ khí huyết chạy lên đầu mới giúp mắt được phục hồi.

Theo khí công, chữa song song 2 cách, cách thứ nhất bổ máu bằng thuốc
sirop Đương Quy Tửu (tankwe-gin), cách thứ hai tập khí công, chọn 7
bài động công đầu tiên kích thích thần kinh ở đầu, bài vỗ tay 4 nhịp
tăng cường khí, để tăng cường chức năng tạng phủ sinh hóa, bài cúi
ngửa 4 nhịp giúp máu lên đầu nuôi não nuôi mắt, bài tĩnh công cách thở
làm tăng áp huyết.

3-Tập khí công và uống thuốc cho đến khi nào đo lại áp huyết lên được
130/85mmHg mạch 70-80 mới đủ liều lượng, bệnh sẽ phục hồi, sau đó tập bài khai mở con mắt thứ 3, không phải là để có thần thông. Theo khí
công ý ở đâu, khí và huyết sẽ được tập trung ở đó, do đó máu sẽ dồn
lên mắt nhiều hơn, làm tăng cường thần kinh thị giác, tăng cường thị
lực nên nhìn rõ hơn.

Thân
Doducngoc

Ung thư sọ não, di căn của ung thư phổi do hút nhiều thuốc lá

Nam bệnh nhân người Rumanian khoảng 50 tuổi, người vợ dắt ông bước vào phòng, theo vọng chẩn của đông y khí công, tôi đã thấy ngay bệnh nhân có bệnh ở tâm phế thận, mặt trắng bủng, người mệt mỏi, lo lắng, đi chậm chạp, thiếu hơi sức, mặt hơi phù, hai gò má hiện mầu đỏ tối. Ông kể bệnh sử hiện đang chữa trị chemotherapy bệnh ung thư phổi, và bây giờ bác sĩ khám thấy di căn lên não có khối u 1cm sau não bên phải, bác sĩ dặn sau 1 tháng tái khám nếu bướu lớn hơn nữa thì phải mổ, còn hiện nay cách hai tuần một lần đi chữa ung thư phổi bằng chemo, đã chữa được 2 lần và ông thấy sức khỏe càng ngày càng suy giảm.

Tôi mời ông nằm trên giường khám, đo áp huyết hai tay đều thấp 105/65mmHg mạch 62, bụng to, khó thở, tức ngực. Tôi bấm huyệt Ế Phong đưa áp huyết lên cao 152/98mmHg mạch 85, rồi hướng dẫn ông tập thở bài dương trong dương để làm tăng dương khí và tăng áp huyết bằng cách tập trung ý tại Đan Điền Thần, bàn tay trái đặt trên mỏm xương ức, bàn tay phải đặt chồng lên trên (đối với người nam, nữ đặt ngược lại). Hơi thở 3 thì, thở bằng mũi, cuốn lưỡi ngậm miệng để giữ khí, thì thở vào phình bụng, lâu 5 giây, thì ngưng thở, lâu 5 giây, thì thở ra xẹp bụng lâu 5 giây. Tôi đếm cho bệnh nhân tập thở để tự điều chỉnh cho đều hơi không bị mệt, sau 30 lần thở, mặt bệnh nhân sáng sủa hồng hào, hơi thở
đều nhẹ và sâu, tôi đo lại áp huyết trở lại bình thường của một người khỏe mạnh 125/82mmHg mạch 72. Ông cảm thấy như một phép lạ, con người nhẹ nhõm, khỏe mạnh, tiếng nói to, ông sờ tay vào sau đầu chỉ cho tôi chỗ bướu và nói 1 tháng sau sẽ phải mổ, ông hỏi tôi phải làm sao. Tôi trả lời, đối với môn khí công, chỗ nào khí huyết bị tắc nghẹt không lưu thông được là chỗ bị bệnh, cách chữa bằng khí công là kích thích cho khí huyết nơi đó lưu thông trở lại được bình thường thì nơi đó sẽ hết bệnh.
Ông hỏi làm sao mà biết nó lưu thông hay không lưu thông.
Tôi thí dụ cho ông hiểu một cách đơn giản, trong xe hơi đi mùa đông giá tuyết, tuyết đóng băng trên mặt kính, tài xế trong xe không thấy đường lái, vết đóng băng đó ví như là một khối u trong cơ thể, tây y công nhận ung thư không do vi trùng, khối u lành chỉ là khối chứa mỡ, nước, thịt dư, khối máu tích tụ, còn khối u ác tính là những khối máu xấu tích tụ mọc rễ thần kinh ăn sâu lây lan vào xương thịt và tạng phủ gây đau đớn làm chết người.

Khi kính ngoài xe bị đóng đá do thời tiết lạnh bên ngoài trời mưa dưới 0 độ, còn trong xe ví như cơ thể con người, cũng lạnh vì máy sưởi trong xe không làm việc. Muốn cho hết băng tuyết dính trên kính xe, có 3 cách giải quyết, thứ nhất dùng dụng cụ chuyên môn cạo tuyết, thứ hai dùng nước hóa chất làm tan, thứ ba mở sưởi trong xe cho kính xe đủ nóng ấm làm tan chảy băng tuyết, cách này phải chờ thời gian lâu nhiệt độ trong xe mới đủ ấm lên. Bướu trong cơ thể cũng vậy, có 3 cách là cắt bỏ, dùng hóa trị liệu, và làm ấm, nhưng cách làm ấm của tây y chưa thích hợp với cơ thể con người, tạm dùng phóng xạ trị liệu. Còn môn tập thở khí công có ưu điểm làm ấm cơ thể toàn thân bằng hít thở thiền, và tập luyện mỗi ngày để duy trì độ ấm giúp khí huyết tích tụ đủ tan biến khối u mà không có phản ứng phụ nào. Để kiểm chứng được độ ấm cơ thể ở những nơi có bướu bị đông lạnh, môn khí công biết tận dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật áp dụng trong cách kiểm chứng bằng máy đo nhiệt kế, máy đo áp huyết, máy đo oxymètre để đo khí huyết lưu thông đủ hay thiếu, thông hay tắc.
Tôi bảo ông chỉ cho tôi chỗ bướu sau não phải, tôi dùng máy đo oxymetre để đầu sensor vào vùng bị bướu, cho ông xem máy, số hiện bên trái là SpO2 chỉ oxy thuộc khí, bên phải vẽ qủa tim chỉ huyết, cả hai bên không hiện số, chỉ có đèn báo hiệu lúc đỏ lúc tắt . Tôi đặt sensor vào bên não trái, đối xứng với bên bướu, thì máy hiện ra số SpO2 thuộc khí chỉ 84, bên huyết chỉ 54. Ông hỏi số đó chứng tỏ điều gì ?

Tôi trả lời, theo tiêu chuẩn bình thường, bất kỳ đặt sensor vào những đại huyệt phản ảnh khí huyết của tim, gan, phổi, thận, tỳ, vị …của lục phủ ngũ tạng hay bất cứ một huyệt nào trên đường kinh mạch của đông y châm cứu, số chỉ khí phải từ 95 đến 100 là tốt, số bên huyết chỉ theo mạch đập đều và khỏe của qủa tim từ 70-80 là tốt. Chỗ đặt sensor bên não phải của ông, vùng đó khí huyết không đi qua, nên máy câm không hiện số, bên não trái, số chỉ khí thiếu, chưa được 95, số chỉ huyết là tốc độ mạch đập của ống máu chậm do tuần hoàn yếu chỉ có 54, mà tiêu chuẩn tối thiểu phải 70.
Tôi nhờ ông cầm máy oxymetre để theo dõi số và đèn mầu báo hiệu trong khi tôi sử dụng bấm huyệt. Theo kinh mạch, có những đường kinh chạy lên đầu để thông khí huyết trong đầu gồm có huyệt Chí âm kinh Bàng Quang, huyệt Túc Khiếu Âm kinh Đởm, huyệt Quan Xung kinh Tam Tiêu, huyệt Lệ Đoài kinh Vị và huyệt Đại Đôn kinh Can đi trong đầu lên đỉnh đầu ra sau gáy. Mỗi lần tôi bấm vào một trong những huyệt kể trên, ông nhận thấy, máy hiện số, và đèn báo đều khác nhau, có đường kinh khí huyết lên đủ, có đường kinh khí huyết không lên đến đầu…

Ông lấy làm lạ, ông chỉ tay vào máy và nói với tôi rằng, ông là kỹ sư làm trong công ty đã góp công sức chế ra loại máy này, nhưng không ngờ nó có thể biến đổi theo từng huyệt trong cơ thể, ngoài dự kiến của những người chế tạo, vì mục đích ban đầu của máy chỉ để đo oxy và nhịp đập qủa tim, dùng cho các bệnh viện trong trường hợp cấp cứu để biết bệnh nhân bị thở khó do thiếu oxy, sẽ được tiếp oxy bằng máy trợ thở Ông hỏi, bây giờ khí huyết tuần hoàn không đủ tôi phải làm sao cho đủ ?
Tôi nói, khí công có những phương pháp tập bằng động tác thể dục khí công, có những phương pháp thở khí công thiền để điều chỉnh khí huyết lưu thông trở lại bình thường.

Trước hết, tôi hướng dẫn ông tập động công, bài Cúi Ngửa 4 Nhịp để chỉnh thần kinh cột sống, tăng cường hệ miễn nhiễm, kích thích gan đưa máu lên đầu nuôi não.

Sau khi tập 20 lần, ông trở lại giường nằm, mặt và vành tai của ông hồng lên, đo lại vùng bướu sau não phải, máy đo chỉ khí 90, huyết 72, vùng đối chiếu với bướu bên não trái máy đo chỉ khí 95, huyết 75.

Khi khí huyết đã thông được lên não, giống như nối dây cho thông với nhau, nhưng trong người cần phải tạo cho tăng nhiệt để dẫn nhiệt theo đường dẫn của khí huyết lên não giúp làm tan khối u mới là cách chữa ung thư của khí công, nó đòi hỏi phải kiên nhẫn bỏ ra công phu để luyện tập
Ông hỏi làm sao để biết khối u teo nhỏ dần ?
Theo đông y, đa số các bệnh ung thư đều thuộc hàn, có nghĩa là chỗ bị bướu do khí huyết lạnh tích tụ đóng thành một khối băng nhỏ, bị cô lập, không đủ nhiệt để lưu thông như các chỗ khác. Nói hàn thì tây y không hiểu, nên tạm dùng nhiệt kế để đo nhiệt nơi vùng huyệt trước khi tập và sau khi tập thở khí công thiền.
Ông hỏi không tập thở thiền và tập thở thiền khác nhau chỗ nào ?
Tôi giải thích rằng, động công bài Cúi Ngửa 4 Nhịp như ông vừa tập, chỉ tạm thời đưa khí huyết đi qua đầu nuôi não, đo khí huyết lúc đó máy chỉ đủ tiêu chuẩn, nhưng sau đó đo lại nó sẽ xuống, không duy trì lâu được. Vì thế cần tập thở khí công thiền, có 3 công dụng chính :

Thứ nhất, tăng cường khí của hơi thở được sâu, thu nạp được nhiều oxy cho máu, và tạo khí lực giúp máu tuần hoàn mạnh hơn, lâu hơn.

Thứ hai, tập trung ý vào một điểm, theo đông y, khí ở đâu, huyết sẽ ở đó, và chỗ nào có huyết lưu thông thì nơi đó có sức nóng ấm tăng nhiệt, do đó trước khi tập, để máy đo nhiệt kế vào huyệt, bàn tay đè lên trên, máy chỉ 29 độ C, sau khi tập, tùy theo yếu tố thời gian và ý có tập trung được vào huyệt hay không, cho đến khi nào, nhiệt độ tăng dần đến 36,5 hay 37 độ C, lúc đó nơi huyệt nóng, bàn tay và trán rịn mồ hôi, có người tập 5 phút nhiệt kế đã chỉ 37 độ C, có người tập 15 phút, nhiệt kế mới chỉ được 36 độ C và nếu tập thêm nữa, nhiệt kế cũng không thể nào tăng thêm được, có người tập 30 phút mới đầu nhiệt kế chỉ lên 36 độC, nếu tập thêm nữa, nhiệt độ lại xuống 30 độ C, vì ý đang suy nghĩ đến chuyện khác, đang mơ màng ngao du sơn thủy, ý không còn tập trung vào huyệt nữa. Điều này chứng minh được lý thuyết của khí công là đúng : Ý ở đâu, khí ở đó, khí đến đâu, huyết đến đó. Mất tập trung ý là khí huyết đều đi loạn sẽ làm mất quân bình âm dương.

Thứ ba, chọn đại huyệt để cho ý tập trung, mà đại huyệt ấy có khả năng chữa bệnh, khí công thường chọn Đan Điền Thần vùng huyệt Cưu Vĩ, Cự Khuyết ở mỏm xương ức, làm mạnh tâm hỏa, chữa chức năng tim mạch, tâm bào, tan mỡ đóng ở vách thành mạch, làm tăng áp huyết, tăng cường chức năng tiêu hóa, chữa gan, tỳ vị, giúp ăn ngon, tăng tính hấp thụ, khi tỳ vị được mạnh, giúp bao tử ấm nóng, theo ngũ hành tương sinh, khi tỳ vị thổ mạnh sẽ nuôi dưỡng cung cấp năng lượng cho con là phế kim, giúp khí của phổi mạnh, chứa nhiều khí, và đem sức nóng của tâm hỏa vào phế để làm tan những khối u trong phổi bị tích tụ hàn khí..

Nếu chọn Đan Điền Tinh ở vùng huyệt Khí Hải dưới rốn 1,5 thốn có chức năng chuyển hóa tinh chất thành khí chất, chứa vào biển khí tên là Khí Hải, nếu đặt ý tập trung theo dõi những biến đổi của khí ở huyệt này, lưu lượng huyết cũng tăng khi chạy qua huyệt này làm tăng nhiệt sẽ chuyển tinh hóa khí đi sang cửa giữ mạng sống của con người được lâu dài gọi là Mệnh Môn nằm trên cột sống sau lưng đối xứng với rốn, rồi khí huyết sẽ tự động đi theo ống tủy xương sống lên não bộ làm vững mạnh thần kinh trung ương để điều chỉnh lập lại sự quân bình khí hóa của toàn thân.

Đan Điền Tinh cũng làm mạnh thận khí, theo ngũ hành, con mạnh, mẹ tự dưỡng, thay vì phổi là kim phải cung cấp năng lượng nuôi dưỡng con nó là thận thủy, thì ngược lại, thận đã đủ mạnh, năng lượng của phế không cần phải nuôi dưỡng thận, nên nó không cần phải tiêu hao năng lượng đang còn thiếu hụt để tự chữa bệnh cho mình. Đối với khí công ý ở đâu khí ở đó, vị trí của Đan Điền Tinh nằm phần bụng dưới, khi ý dẫn khí huyết đi xuống dưới thì áp huyết đang cao sẽ xuống thấp.
Ngoài ra, tập động công bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng để kích thích chức năng sinh hóa lưu chuyển khí huyết trong tạng phủ càng ngày càng mạnh, giống như đang thổi bễ nhóm lửa của lò rèn, trong khi đó người thợ rèn chuẩn bị chọn cục sắt nào hợp với nhu cầu để bỏ vào lò nướng cho đỏ và mềm, rồi mới đập rèn cho thành dụng cụ hữu ích như con dao, cái kéo…Người thầy chữa bằng khí công cũng vậy, phải biết chọn phối hợp huyệt trên cơ thể bệnh nhân tùy theo mục đích chữa để bấm vào huyệt cùng lúc bệnh nhân đang tập, để chuyển hóa chức năng của huyệt tạo ra thuốc nội dược tự chữa bệnh, nên phương pháp khí công gọi bài này là bài : Cùng Nhau Luyện Thuốc.

Cách thức pha chế thuốc theo huyệt, đông y khí công áp dụng nguyên tắc bổ tả theo ngũ hành tạng phủ để có những công dụng như thuốc ngoại dược của đông y như : Bổ Trung Ích Khí, Kiện Tỳ Dưỡng Vị, Bình Can Tức Phong, Thanh Can Hòa Vị, Thanh Nhiệt Giải Độc, Khai Uất Hoạt Huyết, Khu Phong Tán Hàn…nhưng không phải lúc nào đông y cũng cho cùng một loại thuốc, mà cần phải đối chứng lâm sàng mỗi khi tái khám để biết sự biến chuyển tốt xấu của khí huyết đối với bệnh, để điều chỉnh thêm bớt những vị thuốc khác cho phù hợp với tình trạng bệnh. Do đó thầy chữa bệnh bằng khí công cũng phải thay đổi cách chọn huyệt tương xứng như thuốc để bấm trên huyệt cùng lúc với bệnh nhân trong bài tập Cùng Nhau Luyện Thuốc.
Liều lượng thuốc nhiều hay ít đủ cân lượng hay không để chữa khỏi bệnh là do thời gian luyện tập, là yếu tố quyết định mang lại hiệu qủa nhất so với các phương pháp chữa bệnh khác của ngành y mà chúng ta hiện có.

Tôi cũng hướng dẫn ông tập bài kế tiếp là Bài Sinh Tinh Hóa Tủy thở ở huyệt Mệnh Môn, rồi Ép Gối cho gót chân chạm mông theo hơi thở ra, cứ ép mỗi bên chân 60 lần có mục đích tăng cường chức năng chuyển hóa của thận, và bơm khí huyết lên nuôi não. Theo y lý của đông y khí công, não được tiếp nhận đủ máu sẽ làm tăng cường chức năng thần kinh trung ương để điều chỉnh được mọi chức năng sinh hóa và chuyển hóa của tạng phủ được hữu hiệu hơn, nhất là chức năng thận mạnh, thì năng lượng của phổi không bị tiêu hao nếu phải cung cấp cho thận theo nguyên tắc ngũ hành kim sinh thủy, vì thủy đã đủ thì kim tự dưỡng nên chức năng phục hồi những tổn thương của phổi cũng sẽ mau có kết qủa.

Tất cả những kết qủa tập luyện khí công tự chữa bệnh đều phải được theo dõi kết qủa xấu tốt bằng những xét nghiệm y khoa như thử máu, chụp hình…
Bệnh nhân này sau khi tập khí công được một tháng, cùng lúc vẫn tiếp tục điều trị ung thư phổi và ung thư sọ não theo tây y. Lần chụp kết qủa về khối u sọ não, ông báo tin mừng, bác sĩ nói không cần mổ, vì nó không phát triển lớn lên mà teo nhỏ lại. Họ không tin vào khí công đem lại kết qủa ấy, nhưng họ đề nghị dùng tia laser bắn thẳng vào khối u là đủ. Khối u đó đã được bắn 1 lần rồi nghỉ 3 tuần, tái khám. Ông xin tôi hướng dẫn phải tập bài khí công nào tiếp theo, đó là bài Cúi Ngửa 4 Nhịp để dẫn máu lên nuôi não, sau khi tập 20 lần, dùng máy oxymetre đo lại khí huyết chạy qua chỗ bướu, khí chỉ 97, huyết chỉ 80.

Ông nói với tôi, đến thứ hai ngày 11 tháng 5 năm 2009 ông sẽ biết kết qủa xét nghiệm của ung thư phổi.

Ngày thứ ba ông đến phòng mạch báo cho tôi biết một tin vui đã làm cho gia đình ông lên tinh thần, ông nói bác sĩ điều trị làm scan phổi, kết luận rằng khối u trên đỉnh phổi phải đã biến mất, không còn dấu vết, nên ngưng lịch trình điều trị phổi.

Trước kia ông chỉ tập các bài tập riêng cho từng giai đoạn mà tôi đã hướng dẫn trong phòng mạch, bây giờ ông đã mạnh khỏe và có nhiều niềm tin vào các bài tập thể dục động công và tĩnh công thiền. Ông hứa với tôi, từ nay ông sẽ tập mỗi ngày đầy đủ toàn bộ các bài tập khí công theo băng video mà trước kia ông chưa đủ sức khỏe để mắt tới cuốn băng
DVD này.
Tôi nhắn nhủ ông, tất cả những bệnh nan y, tây y cần phải dùng thuốc trong thời gian dài để duy trì sức khỏe và ngăn ngừa bệnh không tái phát mới kéo dài được tuổi thọ, môn tập khí công của chúng tôi cũng tương đương như khả năng của thuốc, vì thế mọi người dù có bệnh hay không, cũng cần phải luyện tập và duy trì mỗi ngày để cơ thể tự tạo ra thuốc giúp cho sức khỏe được tăng cường kéo dài tuổi thọ, đó mới chính là giá trị qúy báu của phương pháp chữa bệnh bằng khí công y đạo mà chúng tôi hiện đang truyền bá phổ biến rộng rãi vô vụ lợi đối với tất cả mọi người .

doducngoc









TÂY Y TRUNG QUỐC áp dụng những bài thuốc y học cổ truyền để chữa bệnh ung thư

Y học trung quốc ngày nay :
TÂY Y TRUNG QUỐC áp dụng những bài thuốc y học cổ truyền để chữa bệnh ung thư.

UNG THƯ là chứng bệnh nan y từ trước đến nay vẫn là mối đe dọa khủng khiếp đã cướp đi mạng sống của con người càng ngày càng nhiều theo đà phát triển của nền công nghiệp hiện đại, và nó cũng là một thách thức các nhà y học đang muốn tìm cách ngăn chặn khống chế sự phát triển gây tác hại tử vong của căn bệnh này.

Theo quan niệm tây y, ung thư là một bệnh của tế bào, phát triển bất bình thường so với các tế bào khác, có hình dạng to hơn, nhân tế bào lớn hơn, bờ nét không đều, sinh sản nhanh, phát triển vô tổ chức, xâm lấn ,phá hoại các tế bào khác chung quanh và khu trú ở đó lâu dài có thể lâu từ 10 đến 15 năm trong thời kỳ tiền ung thư làm trở ngại sự tuần hoàn khí huyết ,làm xáo trộn chức năng của lục phủ ngũ tạng, khi đã xuất hiện rõ trên lâm sàng thì nó phát triển rất nhanh ,việc chữa trị đã muộn , khó chữa hơn là khi nó chưa phát bệnh, còn ở trong thời kỳ tiền ung thư..

Thời kỳ tiền ung thư còn tiềm ẩn trong cơ thể, tây y không thể xác định bệnh nhân có bị bệnh ung thư hay không, thì đông y bắt mạch, định bệnh vẫn khám ra được căn bệnh xảy ra ở mỗi giai đoạn và có cách chữa ở mỗi giai đoạn khác nhau theo tên bệnh đã có của đông y cổ đại như chứng thạch thư ( ung thư xương), thạch ung ( ung thư hạch ) ,sau này Trung quốc thống nhất tên gọi ,dùng từ thủng lựu chỉ chung các loại ung thư, dùng từ nham chỉ các loại ung thư có khối cứng như nhũ nham ( ung thư vú ),phế nham (ung thư phổi ), tử cung nham (ung thư tử cung ), nhục lựu ( bướu thịt ), lâm ba nhục lựu( ung thư hạch lymphosarcome )..

Vì trong sách vở của y học cổ truyền Trung quốc có đề cập đến các loại bệnh ung thư và cách chữa nhưng không được thống kê kết qủa và theo dõi như tây y nên không đáng tin cậy, cho nên các loại bệnh ung thư đều phải điều trị bằng phương pháp y học hiện đại như phẫu trị, xạ trị, hoặc hóa trị. Tuy nhiên 3 phương pháp này chưa hoàn hảo, hậu qủa của cách điều trị theo tây y dẫn đến những tác hại khác đối với cơ thể tạo nên chứng bệnh nan y khác cũng không hạn chế được cái chết do bệnh ung thư đem lại.

a-Phương pháp phẫu trị :
Là cắt bỏ khối ung thư, chỉ có giá trị khi khối ung còn khu trú chưa di căn, mổ cũng là môt phương pháp phá hoại cơ thể để lại cho bệnh nhân những di chứng khổ sở suốt đời.

b-Phương pháp xạ trị :
Dùng tia phóng xạ giết tế bào ung thư còn khu trú giới hạn ở một vùng chưa lan ra toàn thân như ung thư bao tử, ruột già, tụy tạng..nhưng biến chứng do xạ trị đem lại gây tổn thương các mô lành, các mạch máu, làm chai cứng các mô chung quanh ,làm chảy máu mưng mủ gây lở loét lâu lành gây ra biến chứng .

c-Phương pháp dùng hóa trị :
Là dùng hóa chất trong trường hợp phẫu trị và xạ trị bó tay như ung thư lan toàn thân, ung thư máu, ung thư hạch, ung thư lymphom..Hoá chất cũng là một độc tố gây biến chứng suy tủy, suy tim, đau thận, mất máu, mất hồng cầu ,bạch cầu, và gây ra một bệnh ung thư khác.
Ngoài ba phương pháp trên còn có phương pháp khác như dùng nội tiết tố hormone như kích thích tố nam testostérone chữa ung thư vú, cortisone trị ung thư máu cấp tính, có tính cách nâng cao thể trạng bệnh nhân, làm khỏi bệnh tạm thời. Phương pháp dùng Interféron như dùng sức nóng kích thích cơ thể sản xuất những chất sinh học tạo ra các sinh tố A,B,C. để chống lại virus, ngừa bệnh. Và phương pháp miễn dịch cũng là đề tài đang nghiên cứu của các nhà khoa học cho là an toàn và hoàn hảo nhất nhằm tăng cường khả năng chống đỡ tự nhiên của cơ thể .

d-Phương pháp đông y học :
Trước kia y học hiện đại không để ý đến, ngày nay tây y Trung quốc nghiên cứu, tiến hành nhiều đề tài về cách bào chế thuốc và dùng thuốc đông y chữa ung thư và theo dõi, thử nghiệm hơn 40 năm về kết qủa lâm sàng, cùng so sánh với ba phương pháp chính của tây y ,đã thấy có kết qủa .

Nhận thức mới của các nhà y học Trung quốc trong việc chữa trị ung thư là đi tìm phương pháp nào phải đạt được những yếu tố có lợi trong việc bảo vệ sức khỏe bệnh nhân như :

-Nâng cao sức khỏe cho bệnh nhân chống được sự phá hoại của các tế bào ung thư như dùng thuốc bổ khí, bổ huyết, bổ âm, bổ dương..
-Hạn chế sự phát triển của tế bào ung thư.
-Hạn chế những đau đớn, chảy máu, chèn ép gây bế tắc tuần hoàn như phép tiêu đờm, hành khí tiêu đờm, thông hoạt huyết hóa ứ, lương huyết tiêu độc, thanh nhiệt chỉ huyết (làm mát máu, cầm chảy máu )..

A-  Những vị thuốc đã nghiên cứu và công nhận có giá trị chữa ung thư ở trung quốc theo tiêu chuẩn tây y.1-Bạch hoa xà thiệt thảo : ( Oldenlandia diffusa ), có tác dụng phân liệt hạch tế bào ung thư, thanh nhiệt giải độc.
2-Bạch đầu ông : ( Pylsatillaregel chinensis Bge ), có tác dụng giảm đau trong các bệnh viêm, viêm đa thần kinh, thanh nhiệt giải độc.
3-Bạch linh : (Poria cocos ), có tác dụng lợi thấp, chống tế bào ung thư.
4-Bạch cập : ( Bletilla striata ), có tác dụng như kháng sinh,cầm máu, chống ung thư.
5-Bạch truật : ( Atractylodis macrocephalae ) , dùng để chống lại sự phát triển của tế bào ung thư.
6-Bán liên chi : ( Scutellaria barbata D. Don ), có tác dụng thanh nhiệt giải độc, ức chế tế bào ung thư não.
7-Bồ công anh : ( Taracecum Mongolicum Hand. ), có tác dụng kháng khuẩn, kích thích tính miễn dịch, bảo vệ gan mật.
8-Bán hạ : (Pinellia ternata ) , có tác dụng tiêu đờm, cầm nôn, ức chế tế bào ung thư.
9-Câu kỷ tử : ( Lycium sinense Mill ), có tác dụng bổ huyết, ức chế tế bào ung thư.
10- Đại hoàng : ( Rheum palmatum L. Rh Tanguticum ),có tác dụng kháng khuẩn, lợi niệu, lợi mật, trị suy thận.
11-Địa miết trung clip_image001Eupolyphaga sinensis ), có tác dụng phá huyết tắc làm thông huyết, ức chế tế bào ung thư bạch cầu.
12-Địa cốt bì : ( Lycium chinense Mill ), có tác dụng giải nhiệt, hạ áp huyết, hạ cholesterol, hạ đường huyết, hưng phấn tử cung.
13-Hà thủ ô trắng : (Polugonum multiforum ), có tác dụng bổ huyết, ức chế hoạt tính tế bào ung thư.
14-Khổ hạnh nhân : (Prunus armeniaca L.) có tác dụng kháng tế bào ung thư, cầm ho suyễn.
15-Khương lang: (con bọ hung ) (Catharsius molossus ), có tác dụng phá ứ chống ung thư.
16-Linh chi : ( Ganoderma japonicum ), có tác dụng an thần, chống tế bào ung thư.
17-Mộc qua : ( Cha enomeles lagenaria ), dùng để ức chế tế bào ung thư kèm bụng nước.
18-Nga truật : ( Curcuma zedoaria ), có tác dụng phá huyết chỉ thống, ức chế và phá hủy tế bào ung thư.
19-Ngũ gia bì : ( Acanthopanax gracilistylus W. ) ,có tác dụng trừ phong thấp, ức chế tế bào ung thư.
20-Ngũ tinh thảo : (houttunia cordata ), có tác dụng ức chế tế bào ung thư.
21-Phòng kỷ : ( Stephania tetrandra S. Moore ), dùng trị ung thư phổi.
22-Tam lăng : Sparganium stomiferum Buch. ), có tác dụng ức chế tế bào ung thư.
23-Thiên nam tinh : (Arizaema consanguineum Schott. ), có tác dụng hoá đờm, ức chế tế bào ung thư.
24-Thương truật : ( Atractylodes lancea ), có tác dụng trừ thấp, ức chế tế bào ung thư thực quản.
25-Thuyên thảo : ( Rubia cordiolia L.), có tác dụng cầm máu, chống ung thư.
26-Vương bất lưu hành : Vaccaria segetalis ), có tác dụng phá huyết, ức chế tế bào ung thư phổi.
27-Xích thược : ( Paeonia veitchii ), có tác dụng ức chế tế bào ung thư.
28-Xuyên sơn giáp : Manis Pentadactyla L. ), có tác dụng phá huyết, trị ung thư buồng trứng.
29-Ý dĩ : (Coix lacryma-jobi ),có tác dụng tháo thấp chống ung thư.

B- Những bài thuốc chống đau chữa ung thư :
1-Cao thiềm tô : ( nghiên cứu của Bệnh viện Long Hoa, Thượng Hải ), có tác dụng hoạt huyết hóa ứ, tiêu thủng, chỉ thống.
Thành phần : Thiềm tô, sinh xuyên ô, thất diệp nhất chi hoa, hồng hoa, nga truật, băng phiến, chế thành vải cao dán vào chỗ đau.
Thử nghiệm : Chọn 332 ca ung thư phổi, gan ,bao tử, dán cao và theo dõi kết qủa. Những bệnh nhân có đắp cao 177 người ,sau khi dán cao 30 phút giảm đau đớn, duy trì giảm đau kéo dài, không gây nghiện và không có phản ứng phụ, kết qủa tốt 164 người, không kết qủa 13 người. Bệnh nhân không dán cao, dùng thuốc giảm đau theo tây y có 155 người ,có kết qủa giảm đau được 76 người.

2-Khương quế hành khí : ( áp dụng trong BV. Long Hoa ),có tác dụng hóa đờm tán kết, lý khí hóa ứ để giảm đau.
Thành phần : Khương hoàng ,chỉ xác, quế tâm, đương quy, hồng đang, hậu phác, ngô công, uất kim, sài hồ, đơn sâm (đều 30 gram ), nam tinh chế, bán hạ chế, đại hoàng (đều 18 gram) ,bạch thược 60 gram, chích thảo 12 gram, tán thành bột mịn uống.
Thử nghiệm : Trị 44 ca ung thư gan bị đau. Sau 2 ngày có 9 ca hết đau. Sau 3 ngày có thêm 14 ca hết đau, sau 4 ngày có thêm 10 ca hết đau.

3-Băng phiến chỉ thống : ( nghiên cứu của Khoa Ung thư Bệnh viện Dương Táo, Tỉnh Hồ Bắc ), có tác dụng thanh nhiệt, thông khiếu, chỉ thống.
Thành phần : Băng phiến 50 gram, rượu trắng 500 ml chế thành dung dịch để xoa bóp nơi đau.
Thử nghiệm : Trị 44 ca ung thư thực quản, ung thư bao tử, 32 ca giảm đau, 7 ca không có kết qủa.

4-Tử hoàng chỉ thống : ( nghiên cứu của Viện Ung thư Dương Bồ, Thượng Hải ),có tác dụng tiêu phù, giải độc,
chỉ thống.
Thành phần : Đại hoàng, khương hoàng, hoàng bá, bì tiêu, lá phù dung (đều 50 gram) băng phiến, sinh nam tinh, nhũ hương, một dược ( đều 20 gram ), hùng hoàng 30 gram, thiên hoa phấn 100 gram, tán mịn thành bột trộn nước thành hồ đắp trên bướu đau.
Thử nghiệm : Trị 13 ca ung thư gan, giảm đau rõ rệt ở mức độ khác nhau.

C- Những bài thuốc phòng trị biến chứng do xạ trị và hóa trị.1-Hoàng kỳ đằng táo thang : ( nghiên cứu của Bệnh Viện dân tộc Choang, Tỉnh Quảng Tây ),có tác dụng ích khí bổ huyết, trị chứng bạch cầu giảm do hóa xạ trị.
Thành phần : Hoàng kỳ 30 gram, Kê huyết đằng, Đại táo đều 60 gram, Nữ trinh tử , Đơn sâm đều 12 gram, Hoàng tinh 18 gram. Sắc lấy nước uống.
Thử nghiệm : Trị 27 ca bạch cầu giảm, uống thuốc sau 7 ngày, bạch cầu tăng trung bình 1400 /mm3. Trị 20 ca sau khi bạch cầu tăng lúc nghỉ hóa xạ trị, vẫn tiếp tục uống thuốc và xạ trị song song, tổng số bạch cầu giữ ở mức trung bình 5000/mm3.

2-Thăng bạch phương : ( nghiên cứu của Đại học y khoa Tây An, Thiểm Tây ),có tác dụng tăng bạch cầu.
Thành phần : Bổ cốt chỉ, Hoàng kỳ, Đại táo, Hổ trượng đều 30 gram, Dâm dương hoắc, Bột rau thai, Sơn thù nhục, Đương quy, Đơn sâm đều 15 gram, Nữ trinh tử, Kê huyết đằng đều 60 gram, Bột tam thất 9 gram, chế thành viên nặng 1,85 gram.
Thử nghiệm : Trị 46 ca ung thư ác tính , bạch cầu giảm do hóa trị. 44 ca có kết qủa khi hết liệu trình hóa trị, bạch cầu vẫn tăng, không kết qủa 2 ca.

3-Thăng huyết thang : ( nghiên cứu của Bệnh viện Trung y Bắc Kinh ),có tác dụng tăng bạch cầu và hồng cầu.
Thành phần : Sinh hoàng kỳ, Thái tử sâm, Kê huyết đằng đều 30 gram, Bạch truật, Phục linh đều 10 gram, Câu kỷ tử, Nữ trinh tử ,Thỏ ty tử đều 15 gram, sắc nước uống.
Thử nghiệm : Trị 23 ca ung thư bao tử giai đoạn muộn dùng thuốc kết hợp với tây y và 23 ca khác chữa hoàn toàn theo tây y. Kết qủa của nhóm kết hợp, trước khi uống thuốc, tiểu cầu 16,16 +1,43 vạn/mm3 tăng lên 19,05 +1,88 vạn/mm3, bạch cầu sau hóa trị không giảm, thể trọng bệnh nhân trung bình trước khi dùng thuốc 58,50 kg, sau khi dùng thuốc tăng lên 60,66 kg.

4-Bạch sâm quy kê thang : ( nghiên cứu của Khoa Ung thư Bệnh viện 3, Tỉnh Cát Lâm) ,có tác dụng tăng bạch cầu.
Thành phần : Bạch thược 12 gram, Đơn sâm, Kê huyết đằng, Thục địa, Hà thủ ô đều 30 gram, Đương quy, Đảng sâm đều 15 gram, Nhục quế 2 gram, táo tầu 10 qủa. Sắc nước uống.
Thử nghiệm : Trị 70 ca ung thư giảm bạch cầu do hóa xạ trị. Uống trong 3 tháng có 57 ca bạch cầu tăng lên mức bình thường.

5-Sâm kỳ bổ huyết thang : ( nghiên cứu của Bệnh viện Quảng an Môn, Bắc kinh ), có tác dụng tăng tiểu cầu.
Thành phần : Sinh hoàng kỳ, Thái tử sâm, Kê huyết đằng, Thạch vĩ đều 30 gram, Bạch truật, Bán hạ, Sơn dược , Đương quy đều 10 gram, Câu kỷ tử, Nữ trinh tử, Hà thủ ô, Hoàng tinh đều 15 gram, Tri mẫu 6 gram, Trần bì 8 gram, Đại táo 5 qủa. Sắc lấy nước uống hòa chung với 3 gram bột Tam thất.
Thử nghiệm : Dùng trong nhiều ca giảm tiểu cầu có kết qủa.

6-Đảng sâm hoa phấn phương : ( nghiên cứu của Y học viện Côn Minh, Vân Nam ), có tác dụng tăng máu, tăng bạch cầu, tăng tiểu cầu.
Thành phần : Lộ đăng sâm, Hoa phấn, lượng bằng nhau tán bột mịn, uống 16 gram với nước ấm, chia hai lần trong ngày, uống liên tiếp 30 ngày là 1 liệu trình.
Thử nghiệm : Trị 26 ca giảm bạch cầu có 25 ca bạch cầu tăng, 1 ca không kết qủa. Trị 10 ca thiếu máu có 6 ca hồng cầu, bạch cầu tăng, 4 ca không kết qủa. Trị 5 ca tiểu cầu giảm có 4 ca tiểu cầu tăng, 1 ca không kết qủa.

7-Huyết ngỗng : (của Sở nghiên cứu dược Thượng Hải ). Có tác dụng tăng bạch cầu.
Thành phần : Dùng máu ngỗng sấy khô thành viên 250 mg, mỗi lần uống 5-7 viên, uống 3-4 lần trong ngày.
Thử nghiệm : Trị 190 ca ung thư ác tính chữa hóa xạ trị làm bạch cầu giảm, có 130 ca bạch cầu tăng bình thường.

8-Khương nhự bán hạ thang : ( nghiên cứu của Bệnh viện ung thư Liên Ninh ), có tác dụng tăng bạch cầu.
Thành phần : Hồng sâm, Khương bán hạ, Chỉ thực, Trần bì đều 15 gram. Phục linh, Trúc nhự, Sinh khương đều 20 gram, Cam thảo 10 gram. Sắc uống.
Thử nghiệm : Trị 100 ca ung thư có phản ứng nhiễm độc trường vị, đối chứng với 100 ca khác không dùng đông dược. Kết qủa tổ có dùng thuốc, phản ứng tiêu hóa tốt 43%, tổ đối chứng chỉ có 18%.

9-Sâm kỳ quy đơn phương : ( nghiên cứu của Sở phòng trị bệnh nghề nghiệp Tỉnh Sơn Tây),có tác dụng tăng bạch cầu.
Thành phần : Hoàng kỳ 1400 gram, Thái tử sâm, Đương quy, Thạch vĩ đều 1200 gram, Trạch tả 700 gram, Tử đơn sâm, Kê huyết đằng đều 2000 gram, Trần bì 800 gram, sắc rồi vớt xác nấu thành cao, chế viên 10 gram, ngày uống 2 viên sáng tối.
Thử nghiệm : Trị 62 ca ung thư cổ tử cung xạ trị, dùng thuốc từ lúc bắt đầu xạ trị đến hết thời gian xạ trị mà bạch cầu không giảm. Trị 32 ca lúc liều xạ trị đạt 2000-3000 rad, bạch cầu giảm đến 2000-4000/mm3 mới bắt đầu dùng thuốc đông y mà vẫn tiếp tục xạ trị, bạch cầu không xuống nữa, uống liên tục 10 ngày bạch cầu tăng lên 1200mm3.

10-Tử hoàng kê thang : (nghiên cứu của Tổng y viện Lam Châu, Cam Túc ),có tác dụng tăng bạch cầu.
Thành phần : Hoàng kỳ, Tử đơn sâm đều 15 gram, Toàn đương quy, Bạch thược đều 12 gram, Ô dược, Hoàng cầm 9 gram, Kê huyết đằng, Can địa hoàng đều 30 gram, Chích cam thảo 5 gram, sắc uống.
Thử nghiệm : Trị 360 ca các loại bị giảm bạch cầu do xạ trị. Có 333 ca bạch cầu tăng 2000 /mm3, tỷ lệ 92,5% tốt.

11-Huyền sâm liên đào thang : ( nghiên cứu của Bệnh Viện Ung thư Nam Thông, Giang Tô),có tác dụng tăng
bạch cầu.
Thành phần : Sinh địa, Huyền sâm, Mạch môn, Sa sâm đều 15 gram, Liên kiều, Đào nhân, Đơn bì, Cam thảo, đều 10 gram, Ngân hoa 30 gram, Thạch cao 60 gram, sắc uống.
Thử nghiệm : Trị 42 ca ung thư thực quản dùng xạ trị, có 38 ca có kết qủa tăng bạch cầu, có 4 ca không kết qủa.

12-Kỳ tinh bổ huyết thang : ( nghiên cứu của Bệnh viện Bắc Tô, Tỉnh Giang Tô ), có tác dụng tăng bạch cầu.
Thành phần : Sinh địa hoàng, Hoàng tinh, Sinh dĩ nhân đều 30 gram, Câu kỷ tử 15 gram, Bổ cốt chỉ 10 gram, Chích thảo 6 gram, sắc uống.
Thử nghiệm : Trị 84 ca ung thư giảm bạch cầu do hóa trị, dùng thuốc trong thời gian 1-3tuần, có 66 ca bạch cầu trở lại bình thường, có 13 ca bạch cầu tăng trên 50 %, có 6 ca không kết quả.

D- Những bài thuốc kinh nghiệm có kết qủa trị ung thư trên lâm sàng1-Bài thuốc trị ung thư vú : Ngưu hoàng tiêu thủng phương : ( nghiên cứu của Khoa Ung thư Bệnh viện Quảng an Môn, Bắc Kinh ).
Thành phần : Ngưu hoàng 10 gram, chế Nhũ hương, chế Một dược, Hải long đều 15 gram, Hoàng kỳ, Sơn từ cô, Hương duyên, Tam tiên sao, đều 30 gram, Hạ khô thảo, bột Tam thất, Hà thủ ô, Ý dĩ nhân, Tử hoa địa đinh, Nga truật, Tiên linh tỳ đều 60 gram, tán bột làm thành viên, mỗi lần uống 3 gram ,ngày uống 2 lần.
Thử nghiệm :Trị 134 ca trong đó có 16 ca đã phẫu thuật, còn lại là hóa xạ trị. Kết qủa sau điều trị song song với thuốc đông dược, sống được trên 5 năm là 88,80%.
2-Bài thuốc trị ung thư não : Tức phong nhuyễn kiên thang clip_image001[1]nghiên cứu của Học viện Trung y Triết Giang)
Thành phần : Toàn yết 5 gram, ngô công 6 con, đơn sâm 20 gram, Xuyên khung 5 gram, Cương tàm, Địa long, Bán hạ, Bạch truật, Thiên ma, Bối mẫu đều 9 gram, Câu đằng, Thiên qùy tử, Nữ trinh tử, Câu kỷ tử, Phân tâm thảo, đều 15 gram, Hạ khô thảo 30 gram. Sắc uống.
Thử nghiệm : Trị 7 ca ung thư sọ não trong đó có 3 ca ung thư tuyến yên, 2 ca ung thư não thất, 1 ca ung thư khoang sọ, 1 ca ung thư chẩm. Sau điều trị, thời gian sống lâu nhất được 16 năm, ngắn nhất là 5 năm 3 tháng.

E -Những bài thuốc căn bản chung của đông y và cách dùng :1. Thanh nhiệt giải độc :Ung thư làm bệnh nhân sốt cao, khát nước, miệng đắng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, bức rứt, thường gặp trong bệnh ung thư máu, tử cung, ung thư da có lở loét.

Những bài thuốc chế sẵn :
Thuốc thành phẩm có bán ở các tiệm thuốc Bắc :
a/ Phổ tế tiêu độc ẩm : gồm có các chất hoàng liên, hoàng cầm, trần bì, cam thảo, liên kiều, bản lam căn, mã bột, lư bàng tử, bạc hà, cương tàm, thăng ma, sài hồ, cát cánh .
b/ Hoàng liên giải độc thang : gồm có hoàng liên , hoàng cầm, hoàng bá, chi tử .
c/ Tiên phương hoạt mệnh ẩm : gồm có xuyên sơn giáp, bạch chỉ, thiên hoa phấn, tạo giác thích, quy vĩ ,xích thược, cam thảo, nhũ hương, một dược, phòng phong, bối mẫu, trần bì, kim ngân hoa .
d/ Ngũ vị tiêu độc ẩm : gồm có kim ngân hoa, bồ công anh, tử hoa địa đinh, tử bối, thiên qùy .
e/ Tứ diệu dũng an hoàn : gồm có huyền sâm, đương quy, kim ngân hoa, cam thảo.

2. Lương huyết chỉ huyết :Ung thư có triệu chứng chảy máu như máu cam, răng lợi chảy máu, nôn ra máu, tiêu tiểu ra máu đỏ.. khám lưỡi thấy đỏ, người nóng.
Những bài thuốc chế sẵn :
a/ Thanh dinh thang gia vị : gồm có tê giác, sinh địa, huyền sâm, tim lá tre, mạch môn, đơn sâm, kim ngân hoa, liên kiều, gia thêm hoa hòe sao tồn tính tán bột.
b/ Tê giác địa hoàng hoàn : gồm có tê giác, sinh địa, xích thược, đơn bì, gia thêm thập khôi sao tồn tính tán ra bột ( thập khôi gồm đại, tiểu kế, lá sen, lá ngải cứu, trắc bá diệp,mao căn, đại hoàng, chi tử, tông lữ bì, tây thảo căn ).

3. Tư âm thanh nhiệt :
Ung thư sốt âm ỉ kéo dài tăng sốt về chiều và đêm ra mồ hôi, khó ngủ, hay uống nhiều nước, nước tiểu vàng, bón, lưỡi thu nhỏ, rêu vàng khô.
Những bài thuốc chế sẵn :

A-Dùng chữa ung thư phổi và đường hô hấp :
a/ Thanh táo cứu phế thang : gồm có tang diệp, thạch cao, đảng sâm, cam thảo, hồ ma nhân, a giao, mạch môn, hạnh nhân, tỳ bà diệp.
b/ Sa sâm mạch môn thang : gồm có sa sâm, mạch môn, ngọc trúc, cam thảo ,tang diệp, sinh biển đậu, thiên hoa phấn.
c/ Dưỡng âm thanh phế thang : gồm có sinh địa, mạch môn, cam thảo, huyền sâm, bối mẫu, đơn bì, bạc hà, bạch thược.
d/ Bách hợp cố kim hoàn : gồm có sinh, thục địa, bối mẫu, bách hợp, mạch môn, huyền sâm, đương quy, bạch thược, cam thảo, cát cánh.

B-Dùng chữa ung thư có dấu hiệu can thận âm hư gây hư hỏa làm da nóng, bức rứt, sốt về chiều, đêm ra mồ hôi trộm, đau tức sườn ngực, ho ra máu:
a/ Đại bổ âm hoàn : gồm có hoàng bá, tri mẫu, thục địa, quy bản.
b/ Nhất quán tiễn : gồm có bắc sa sâm, đương quy, sinh địa, kỷ tử, xuyên luyện tử.
C-Dùng chữa ung thư có hội chứng âm hư :
a/ Lục vị địa hoàng hoàn : gồm có thục địa, sơn dược, sơn thù, phục linh, trạch tả, đơn bì .
b/ Tri bá địa hoàng hoàn : gồm có lục vị địa hoàng hoàn gia thêm tri mẫu và hoàng bá.
c/ Kỷ cúc địa hoàng hoàn : gồm lục vị hoàn gia thêm câu kỷ tử, cúc hoa.
d/ Mạch vị địa hoàng hoàn : gồm có lục vị hoàn gia thêm mạch môm, ngũ vị tử.

4.Hành khí hoạt huyết :
Ung thư có đau do khối u chèn ép, đông y phân biệt do khí tắc trệ trở ngại lưu thông của khí, làm đau tức và lan truyền sang vùng khác, do huyết ứ tụ tắc thì đau như dao đâm cố định một chỗ ở vào giai đoạn khối u phát triển lớn, kèm theo cơ thể suy nhược, nên trong thuốc hoạt huyết hóa ứ có vị bổ khí huyết.

A-Những bài thuốc chế sẵn để thông khí, hành khí :
a/ Việt cúc hoàn : gồm có thương truật, hương phụ, xuyên khung, thần khúc, sơn chi tử sao. Dùng để chữa ung thư bao tử, đầy tức bụng, ợ ói, ăn không tiêu.
b/ Bán hạ hậu phác thang : gồm có bán hạ chế, hậu phác, phục linh, sinh khương, tô diệp. Trị ung thư phổi, hô hấp yếu, ngực sườn đầy tức, ho có đờm làm khó thở.
c/ Ô dược tán : gồm có ô dược, mộc hương, tiểu hồi hương, thanh bì, cao lương khương, bình lang, xuyên luyện tử, ba đậu chế ,có tác dụng giảm đau.
d/ Quất hạch hoàn : gồm có quất hạch, hải tảo, côn bố, xuyên luyện tử, đào nhân, hậu phác, mộc thông chỉ thực, diên hồ sách, quế tâm, mộc hương. Trị thông những chỗ đau do ứ tắc kết tụ .
e/ Quất bì trúc nhự thang : gồm có quất bì, trúc nhự, đại táo, sinh khương, cam thảo, đảng sâm.Trị nôn mửa.

B-Những bài thuốc chế sẵn để thông huyết, hoạt huyết :
a/ Đào nhân thừa khí thang : gồm có đào nhân, đại hoàng, quế chi, chích thảo, mang tiêu.
b/ Huyết phủ trục ứ thang : gồm có đương quy, sinh địa, đào nhân, hồng hoa, chỉ xác, xích thược, sài hồ, cam thảo, cát cánh, xuyên khung ,ngưu tất.
c/ Cách hạ trục ứ thang : gồm có ngũ linh chỉ (sao) ,đương quy, xuyên khung, đào nhân, đơn bì, xích thược ,ô dược, diên hồ, cam thảo, hương phụ, hồng hoa, chỉ xác. Chữa huyết ứ tắc làm đau vùng cách mô.
d/ Tiểu phúc trục ứ thang : gồm có tiểu hồi, càn khương, diên hồ, một dược, xuyên khung, đương quy, nhục quế, xích thược, bồ hoàng, ngũ linh chỉ sao. Chữa huyết ứ tắc làm đau bụng.
e/ Thân thống trục ứ thang : gồm có tần giao, xuyên khung, đào nhân, hồng hoa, cam thảo, khương hoạt, một dược, đương quy, ngũ linh chỉ sao, hương phụ, ngưu tất, địa long.

C-Những bài thuốc bổ khí hoạt huyết :
a/ Bổ dương hoàn ngũ thang : gồm có hoàng kỳ, đương quy vĩ, xích thược, địa long, xuyên khung ,đào nhân, hồng hoa. Trị ung thư gây liệt , méo miệng mồn, khó nói.
b/ Thất tiếu tán : gồm có bồ hoàng, ngũ linh chi.
c/ Sinh hóa thang : gồm có đương quy, xuyên khung, đào nhân, bào khương, chích thảo.
Thuốc hành khí hoạt huyết đã được thử nghiệm trên chuột và trên người, Nhật bản và Trung quốc công nhận nó có tác dụng ức chế tế bào ung thư ,nên đã dùng loại thuốc hành khí hoạt huyết để phòng bệnh ung thư , hoặc ngừa ung thư tái phát.

5-Bổ khí huyết :
Các bệnh ung thư chữa theo tây y đa số đều làm cho khí huyết suy kém, thiếu máu, hồng cầu và bạch cầu. Ngày nay y học Trung quốc áp dụng thuốc bổ khí huyết để nâng cao sức chống đỡ, tăng cường sức bảo vệ cơ thể trong thời kỳ suy nhược.
A-Những bài thuốc chế sẵn để bổ khí :
a/ Độc sâm thang : Một vị thuốc duy nhất là nhân sâm.
b/ Tứ quân tử thang : gồm có đảng sâm, bạch truật, bạch linh, chích thảo.
c/ Lục quân tử thang : gồm có tứ quân tử, thêm trần bì, bán hạ.
d/ Hương sa lục quân : gồm có lục quân tử, thêm mộc hương, sa nhân.
e/ Sâm linh bạch truật tán : gồm có tứ quân tử, thêm hoài sơn, biển đậu, liên nhục, ý dĩ, cát cánh, sa nhân.
f/ Bổ trung ích khí hoàn : gồm có hoàng kỳ, đảng sâm, bạch truật, chích thảo, đương quy, trần bì, thăng ma, sài hồ.
g/ Sinh mạch tán : gồm có nhân sâm, mạch môn, ngũ vị.
B-Những bài thuốc chế sẵn để bổ huyết :
a/ Tứ vật thang : gồm có thục địa, đương quy, bạch thược, xuyên khung.
b/ Dao ngãi thang : gồm có xuyên khung, a dao, cam thảo, ngãi diệp, đương quy ,bạch thược, can địa hoàng.
c/ Đương quy bổ huyết thang : gồm có đương quy, hoàng kỳ.
C-Những bài thuốc chế sẵn vừa bổ khí bổ huyết:
a/ Bát trân thang : gồm hai bài tứ quân và tứ vật hợp lại.
b/ Hà sa đại tạo hoàn : gồm có tử hà sa, nhân sâm, sinh địa , đỗ trọng, thiên môn, mạch môn, quy bản, hoàng bá, phục linh, ngưu tất .
c/ Hà nhân ẩm : gồm có hà thủ ô, nhân sâm, đương quy, trần bì, sinh khương.

6-Bổ dương :Mục đích ôn bổ tỳ, ôn bổ thận hoặc bổ cả hai , chữa chân tay lạnh, hay tiêu chảy, ăn không tiêu, bụng đầy, phù thủng, suy nhược, áp huyết xuống thấp, mạch thoi thóp, suy kiệt.
Những bài thuốc chế sẵn:
a/ Thận khí hoàn : gồm có can địa hoàng, hoài sơn, sơn thù, trạch tả, bạch linh, đơn bì, quế nhục, chế phụ tử.
b/ Hữu quy hoàn : gồm có thục địa, sơn dược, sơn thù, thục phụ tử, quế nhục, câu kỷ tử, đỗ trọng, thỏ ti tử, đương quy, lộc giác dao.
c/ Chân vũ thang : gồm có bạch linh, bạch truật, bạch thược, sinh khương, nhân sâm, chế phụ tử.

7-Hóa đờm nhuyễn kiên.
Làm tiêu khối u do đờm kết thành hạch to, sử dụng loại này phải kết hợp với thông hay bổ khí huyết, thanh nhiệt giải độc, tùy theo tình trạng bệnh lúc chẩn đoán lâm sàng.
Những bài thuốc chế sẵn :
a/ Nhị trần thang : gồm có bán hạ chế, trần bì, bạch linh, chích thảo, sinh khương, ô mai.
b/ Ôn đởm thang : gồm có bài nhị trần thang thêm trúc nhự, chỉ thực, có tác dụng cầm nôn.
c/ Địch đờm hoàn : gồm nhị trần thang thêm nam tinh, chỉ thực, đảng sâm, xương bồ, trúc nhự, áp dụng trong trường hợp nghẽn đờm làm hôn mê, khó nói.
d/ Kim thủy lục quân tiễn : gồm có nhị trần thang thêm đương quy, thục địa, có tác dụng tư âm hóa đờm.
e/ Bối mẫu qua lâu tán : gồm có bối mẫu, qua lâu, thiên hoa phấn, bạch linh, quất hồng, cát cánh, có tác dụng thanh nhiệt hoá đờm.

Bác sĩ tây y bị ung thư tự cứu chữa khỏi bệnh theo y lý đông phương

Xin giới thiệu với qúy vị học viên một bài viết của một bác sĩ  tây y bị bệnh ung thư di căn tự cứu chữa khỏi bệnh theo y lý đông phương.
Bài do Chân Phương lược dịch...

Nẻo vào tâm giớI
15.02.2008
Chân Phương (lược dịch)
Anthony J.Sattilaro (Theo Văn hoá Phật giáo)
Bác sĩ Anthony J.Sattilaro là Giám đốc của một bệnh viện lớn ở Hoa Kỳ, nhưng bị mắc bệnh ung thư di căn. Nhờ áp dụng phương pháp thực dưỡng Macrobiotics dựa trên triết lý và y học cổ truyền phương Đông, ông đã xoá được không chỉ dấu vết ung thư mà cả những định kiến để tiếp nhận một tri thức mới về sự sống. Sau đây là lời tâm tình của ông được trích dịch từ tập sách Living well naturally (Sống tự nhiên).

Cũng như nhiều người Mỹ trí thức khác, tôi đã từng tự cho mình là người duy lý nhất. Bất kỳ cái gì cũng muốn được xem là thực thì phải được chứng minh bằng biểu hiện vật lý, nghĩa là người ta phải cảm nhận được cái đó bằng năm giác quan (thấy được, ngửi được, sờ được, nghe được và nếm được) hoặc đo lường được các tác dụng của nó, bằng các dụng cụ khoa học.

Nói cách khác, cái gì cũng có trong tự nhiên đều phải có hình có dáng, không hình, không dáng và không đo đạc nghĩa là không có thực. Tư tưởng duy lý làm tôi choáng ngợp đến độ dù “nghi” là một điều gì đó về sự sống và thân phận con người cao rộng hơn quan điểm vũ trụ thuần vật lý, tôi cảm thấy không thích hợp khi phải diễn tả một nỗi nghi như vậy ngay cả với chính tôi vả lại người bày tỏ một viễn ảnh tâm linh về đời sống thường dùng những lời lẽ mang màu sắc cảm tính hơn là lý trí.

Lúc tốt nghiệp y khoa, lý trí đã hoàn toàn chi phối phần ước mong bổ khuyết về mặt tâm linh của tôi. Tôi nói là chi phối, chứ không phải là tiêu diệt, vì tiếng nói bên trong vẫn thỉnh thoảng vọng lên thì thầm trong câm lặng như khuấy động hồn tôi.

Nhưng tiếng thì thầm ấy chưa đủ sức đẩy lùi tham vọng thành công sự nghiệp cá nhân và thỏa mãn các mộng ước đời thường, vì nếp nghĩ suy duy lý phục vụ cho tham vọng đắc lực hơn, mà tôi cũng đầy tham vọng như bao nhiêu người khác óc duy lý thấy mọi cái hiện hữu như là thực thể riêng biệt và vì không có cơ sở khoa học chứng minh cho thực tại tâm linh, nên người ta chỉ để ý đến đặc quyền đặc lợi của chính mình, mà tất cả đều được sắp đặt tùy theo mức độ quan tâm đến sự sống còn; và tôi đã phấn đấu để sống còn trong lĩnh vực đầy đua chen của ngành y và sau đó là công việc điều hành bệnh viện.

Vì tình thương cần sự hy sinh quên mình, nên tất yếu không phát triển được trong một môi trường đấu tranh, chụp giựt. Bởi lẽ đó tôi thường thầy mình cô đơn (hoặc tự cô lập ) trong cuộc sống, nếu lẻ loi chăng cũng chỉ là một nhóm bạn thân mà đời người cũng có những lúc nhằm tôi với con mắt ganh ty.

Mỉa mai thay, vào lúc tôi với đến được nấc thang thành công khá cao - được đề cử làm giám đốc một bệnh viện lớn - thì lại chạm trán với cơn khủng hoảng nhất đời: bệnh ung thư! Bỗng dưng tiếng thì thầm trong tôi vang lên mồn một, và những thần tượng khoa học duy lý bắt đầu sụy đổ.
Trong tâm, tôi thấy mình đạt đến giới hạn của kiến thức và quyền lực. Tôi sắp chết mà y học tiên tiến thì chẳng giúp được gì, ngoại trừ lấy đi xương sườn bị ung thư và cặp tinh hoàn. Mặc dù phẫu thuật tinh vi và thuốc men đầy đủ, cái chết dường như cầm chắc!

Các cuộc phẫu thuật đã nghiền nát tâm tư tình cảm của tôi.
Cuối cùng, tôi lần mò vào một hệ thống trị liệu tuy chẳng có cơ sở hợp lý nào, nhưng tôi bám vào đó vì nó cho tôi hy vọng.
Lẽ dĩ nhiên ban đầu tôi không tin hẳn một phương pháp chỉ gồm ăn chay quân bình âm dương, thể dục khí công và tĩnh tâm thiền định lại có thể giải quyết được một vần đề làm các bậc trí thức sáng chói nhất nước Mỹ phải bó tay.
Tuy nhiên, càng ngày càng thấy mình khỏe ra trên đà hồi phục, tôi càng thêm tin tưởng hiệu lực của phương pháp này. Điều làm cho nền móng duy lý của tôi rung rinh hơn cả đó là sự kiện kỹ thuật nói trên được giải thích bằng những thuật ngữ trái ngược với tư tưởng duy lý, nhất là với kiến thức của Tây y chính thống.

Lời giải thích của phương pháp Thực dưỡng tuy có đưa ra những luận điểm khoa học, nhưng đối với trình độ hiểu biết của tôi lúc bấy giờ (1978), tất cả đều có vẻ mơ hồ gượng ép.

Hơn nữa, phương pháp này lại đề cập đến một sự hiện diện của một năng lực phổ quát mà phương Đông gọi là “khí”, năng lượng này có một trong mọi sinh vật và là nhiên liệu chính yếu của cuộc sống. Các kỹ thuật ăn chay lành mạnh, châm cứu, thể dục khí công và tĩnh tâm thiền định nhằm cải thiện dòng năng lượng đã bị rối loạn, đưa cơ thể trở lại trạng thái quân bình”.

Đối với phương Tây, lời giải thích này có vẻ là thần học hơn là khoa học. Cho rằng năng lượng phổ quát là nguồn sống đích thực dường như là một cách nói khác về Thượng đế và các ân sủng của Ngài.

Người phương Đông cho rằng trong và quanh cơ thể có một môi trường năng lượng, vậy môi trường đó có phải là linh hồn của con người hay không? Như vậy, theo quan điểm này, con đường duy nhất tôi phải đi đến cũng để khỏi bệnh là cởi mở tự ngã để tiếp nhận năng lượng trị liệu hay ân sủng của vũ trụ?

Những suy tư như thế khiến tôi cảm thấy cuộc đời như giấc mộng và tôi dấy lên niềm phân vân day dứt không nguôi, vì triết lý phương Đông kêu gọi phần mỹ cảm hay tâm linh.

Dù sao tầm nhìn tâm linh giúp tôi cảm thấy mình dồi dào sức mạnh và năng lực nội tại hơn là tầm nhìn duy lý có thể đem lại. Các phương pháp dưỡng sinh cổ truyền của cả Đông lẫn Tây đều xác nhận như nhau: bằng cách ăn uống lành mạnh, tĩnh tâm và sống giản dị, người ta thanh tẩy được con người mình, trở nên trong sạch và thấm nhuận nguồn năng lượng chân nguyên của vũ trụ, các hành động của con người nhờ thế sẽ có ý nghĩa hơn vì được thôi thúc bởi những động lực tinh thần hơn là những dục vọng tầm thường.

Hàng ngày tôi đi qua đi lại giữa hai thế giới - từ thế giới của Descartes, nền tảng y học hiện đại, đến quan điểm tổng hợp về thực tại, cơ sở của phương pháp Thực dưỡng mà tôi hy vọng sẽ giúp đời tôi.
Khỏi phải nói, tôi cam chịu một nỗi niềm tựa hồ cơn khủng hoảng. Không có gì vốn liếng kinh nghiệm bản thân có thể giúp tôi nắm bắt cách suy tư mới, ngoại trừ những hiểu biết về niềm tin Thiên Chúa do nhà thờ thuyết giảng còn sót lại từ thời thơ ấu.

Thật vậy, tôi đã không đến nhà thờ nhiều năm và các tín điều thuyết giảng của tôn giáo không còn vướng bận trong tâm thức hàng ngày của tôi nữa. Như vậy, phương pháp Thực dưỡng dường như xa lạ đối với tôi đến nỗi có lúc tôi tưởng chừng những người truyền bá đã bịa ra lời giải thích cho thực tại khi họ áp dụng nó. Nhưng nếu làm tôi băn khoăn nhất là liệu quan điểm tổng hợp tâm thể này có thể đem lại kết quả hay ho nào không?
Tôi đã phân vân giữa hai đều chọn lựa: hoặc là dẹp bỏ óc duy lý và hy vọng tìm thấy giá trị trong những gì tôi đang làm, hoặc là phủ nhận mọi thực chất trong những gì xảy đến với tôi, và tôi đã chọn cả hai.
Tôi phải tập chấp nhận sự kiện có hai lối nhìn vào thực tại: một là dựa vào lý trí cho rằng mỗi sự vật trong thiên nhiên đều có thể cô lập như một thực thể riêng lẻ, cách phân biệt và vận động theo những quy luật có tính máy móc; và hai là cảm nhận bằng tâm linh, thấy rằng mọi sự vật trong thiên nhiên, bao gồm mọi đời sống, là thống nhất, và vận động của đơn vị thống nhất này bị chi phối bởi một năng lực vô tận còn gọi là “lượng năng” hay “chân tâm” luôn luôn nâng cao thể chất và tinh thần đến chỗ tốt đẹp.
Vì lẽ đó, tôi vẫn để xét nghiệm y khoa đều đặn, chính những xét nghiệm này chính ra cũng là tiếng nói quen thuộc giúp chứng minh được thực tế. Các xét nghiệm đều cho thấy sức khỏe của tôi trên đà phục hồi và cuối cùng là những dầu vết ung thư hoàn toàn biến mất.
Như vậy phương pháp xa lạ không chính thống này đã có tác dụng thực sự, mặc dù lời giảng giải căn bản mang tính chất bí ẩn.

Dù sao, tôi cũng đến độ tin rằng đằng sau mọi hiện hữu có một động lực mà người phương Đông gọi là Phật tính, động lực đó cũng là tình yêu vô biên và vô hạn, nhưng đồng thời cũng cương quyết nhắc nhở và kiên trì giáo dục để nâng cao tâm thức chúng ta.

Một trong nhưng cách hành tác dường như thường có của động lực đó là xô đẩy chúng ta vào những biến cố làm tê liệt tri giác, phá vỡ những niềm tin và thành kiến đã có đến độ chúng ta sụm xuống như đống gạch vụn của một tòa cao ốc sụp đổ tan tành. Chính vào thời điểm thập tử nhất sinh này có thể và thường xảy ra một hình thức “tái sinh” chuyển thể, và đó là lúc khởi đầu một đời sống mới









Tập khí công chữa ung thư

Kính gởi Thầy Ngọc.
Thưa Thầy, Nếu bị yếu hoặc ung thư tuyến tuỵ (pancrea)
thì có cánh nào tập hoặc thuốc chữa hay không
Cám ơn thầy
Con

Trả lời :
Ung thư tuyến tụy phải có triệu chứng sưng đau hông sườn trái, đi tiểu chảy nhiều lần trong ngày, người mệt mỏi, ốm gầy mất sức dần, thiếu máu, áp huyết thấp. Tôi đã chữa khỏi một bà đầm đi tiêu chảy 20 lần một ngày. Bệnh tiêu chảy thuộc Tỳ thì tiêu chảy ra nước, không đau bụng. Mót đi là phải chạy đi ngay . Khi bà đến tôi chữa là bà đã bị đi như vậy liên tục 1 tháng mà bệnh viện không có cách gì cầm lại được, cho về nhà chờ chết .
Nếu chưa có triệu chứng đi tiêu chảy nhiều mà chỉ có dấu hiệu gầy yếu mất sức, biếng ăn, đầu mình nặng nề, bụng đầy, chân tay mệt mỏi, rêu lưỡi trắng nhớt thì do chức năng của tỳ hư phân biệt ra nhiều chứng khác nhau và cách chữa khác nhau :
1-Chứng tỳ khí hư :
Biếng ăn vì ăn vào bụng đầy sinh mệt mỏi, mặt vàng, chóng mặt thường do hậu qủa của bệnh loét bao tử hay viêm loét đường ruột.
2-Chứng tỳ dương hư không thống huyết :
Là trường hợp nặng hơn không còn chức năng điều khiển dẫn huyết tuần hoàn nên thường bị xuất huyết mạn tính, kinh nguyệt ra nhiều như làm băng, đại tiện ra máu, dễ chảy máu dưới da…
3-Bệnh Tỳ lao : Do no đói thất thường, lo nghĩ nhiều làm tổn thương tỳ khiến gầy mòn, kém ăn, mỏi chân tay, ăn vào đầy bụng, đi cầu phân lỏng nhão.
4-Tỳ thất kiện vận : Chức năng khí hóa thất thường không chuyển hóa thức ăn làm rối loạn tiêu hóa trướng, sôi bụng, tiêu chảy, bệnh kéo dài sẽ teo cơ, vàng da, chân tay vô lực, thủy thấp dưỡng trấp biến thành đàm, chân tay phù thủng.
5-Chứng Tỳ thủy : Bụng to, thiếu hơi, tiểu khó, chân tay nặng nề.
6-Chứng Tỳ tý (đau lá mía) : Tứ chi mỏi, ho, tức ngực, nôn mửa ra nước dãi trong.
7-Chứng Tỳ ước : Không đủ nước gây bón khó bài tiết.
Tất cả các chứng Tỳ hư, theo đông y đều dùng thuốc bổ Tỳ. Nhưng đối với cách chữa bằng khí công thì tập khí công là chính, thuốc chỉ là phụ.
Tập động công :
Bài Nạp khí trung tiêu : Nằm ngửa, hai bàn tay chồng lên nhau, nam tay trái ở dướI, tay phải ở trên, nữ làm ngược lại) đặt dưới xương ức (Đan điền thần) , dơ hai chân thẳng đưa lên cao khỏi mặt giường 45 độ, lâu 1 phút,  cuốn lưỡi ngậm miệng hít thở tự nhiên bằng mũi trong suốt thời gian tập .Hết 1 phút, đặt chân xuống, vẫn cuốn lưỡi ngậm miệng, tay vẫn để đan điền thần, nằm thư giãn theo dõi hơi thở đang nhồi lên nhồi xuống ở bụng do mình mới vừa nạp khí, chờ nó nhồi hết (như sóng biển đang đập vào bờ để lôi kéo rác trên bờ ra biển cả giúp cho bờ biển sạch) khi nó nhồ là nó đang chuyển khí vào khắp nơi trong bụng, đua oxy thêm vào cho các tạng, kích thích đụng vào các tạng cho nó chuyển động nhồi bóp đẩy độc tố, đẩy nước độc ứ lâu ngày trong bao tử, gan, tỳ, ruột, tan mỡ và nước tích lũy trong màng mỡ tam tiêu trước bụng, làn co bóp nhu động ruột, thận, bàng quang chữa được bệnh đi tiểu đêm và bệnh tuyến tiền liệt, đau tử cung dây chằng , cho nên ở thì nghỉ ngơi nghe khí nhồi chúng ta nghe được nước và những bướu khí tích tụ chảy xuống dưới bụng dưới . Tập bài Nạp khí trung tiêu 5 lần liên tiếp mất 10 phút .Sau khi tập xong hai qủa thận và thăn lưng bị ép cứng lại, nên phải tập thêm bài Kéo đầu gối .
Bài kéo đầu gối : Đan hai bàn tay nắm một đầu gối, khi hít vào thì kéo đầu gối trái vào sát cánh tay, cho đùi đụng vào bao tử hay đụng vào gan, khi thở ra bỏ tay duỗi chân ra, rồi khi hít vào nắm đầu gối phải kéo vào, khi thở ra duỗi chân ra. Cứ kéo bên này bên kia theo hơi thở vào thở ra liên tục đều đều 30 lần, công dụng bài này vừa chữa đau lưng, sạn thận, vẹo cột sống lưng, thần kinh tọa, vừa nhồi bóp đường ruột, gan bao tử . Theo lý luận âm dương .Bụng là mặt âm, kéo chân vào và hít vào là dương tức là đang dùng dương chữa âm mà cũng là dùng dương chữa dương ở lưng .
Tập Tĩnh công :
Nằm ngửa, hai tay đặt tại Đan điền thần như trên, cuốn lưỡi đụng hàm trên sâu vào trong cổ họng, ngậm miệng , nhắm mắt, thở tự nhiên bằng mũi, chỉ theo dõi hơi thở vào thở ra bằng cách chú ý bụng đang phồng lên đang xẹp xuống (nhà thiền gọi là quán tức), sau khi quán tức được rồi thì qua phần đếm hơi thở (nhà thiền gọi là sổ tức), có nghĩa là khi bụng nó phồng-xẹp xong 1 lần, mình ghi nhận trong đầu là 1, phồng-xẹp lần nữa mình ghi nhận là 2, rồi 3,4,5,6,7,8,9,10, tiếp tục trở lại 1,2,3,4,5,6,7,8,9 nhưng mình đếm dồn lên là 20, rồi lại 1,2,3,4,5,6,7,8,9  rồi lại đếm dồn lên là 30, rồi lại 1,2,3,4,5,6,7,.8,9, 40 . Tập cho đến khi nghe bụng nóng, hai bàn tay nóng, sôi bụng, tiếng nước từ gan, bao tử, màng ngực chạy xuống bụng dưới . Nếu tập vào buổi tối trước khi đi ngủ sẽ đi vào hôn trầm rơi vào giấc ngủ sâu không mộng mị, nhưng nếu tập trong tình trạng tỉnh thức thì 1 giờ thiền tương đương với 2 giờ ngủ, cơ thể cũng không mệt mỏi khi thức dậy đi làm.
Khi tập thở lúc còn tỉnh thức là thời kỳ Sinh Hóa kiểm soát lại chức năng hoạt động của tạng phủ để chế biến lại thức ăn mà mình đã ăn giống như trâu bò đang nhai lại cỏ mà nó đã ăn. Khi ở thể thật tĩnh ngủ sâu, lúc đó cơ thể đang ở thời kỳ Chuyển Hóa biến chất bổ thành vinh vệ khí, biến đổi ra vinh khí để thành máu đi nuôi cơ thể da thịt xương cốt…biến đổi thành vệ khí là chất vô hình đi vào hệ miễn nhiễm phòng chống bệnh tật .
Bài tập tịnh công có 3 cách đặt tay :
Cách thứ nhất : Quân bình âm dương, bàn tay duơng đặt trên Đan điền thần dưới xương ức , bàn tay âm đặt dưới rốn huyệt Khí Hải . Tay dưong của Nam là tay trái, nữ là tay phải . Đan điền Thần là địện dương nối với tay dương. Đan điền tinh là điện âm nối với tay âm, đó là cách nối mạch truyền khí và tích lũy khí vào tạng phủ để điều hòa âm dương theo nguyên tắc bảo toàn năng lượng .
Cách thứ hai : Hai tay để vào Đan điền Thần để hoàn toàn tăng dương tăng Sinh Hóa, chữa bệnh âm, ăn không tiêu, tiêu chảy, thiếu máu, áp huyết thấp, người lạnh, sốt rét….Tay trái nam để dưới xương ức, tay phải chồng lên trên .
Cách thứ ba : Hai tay để vào Đan điền Tinh để tăng âm, tăng Chuyển Hóa, chữa bệnh dương, táo bón, người nóng, khát uống nước nhiều, áp huyết cao, sốt nóng…Khi tỉnh thức tập thở là đang ở thời kỳ Sinh hóa trong chu kỳ chuyển hóa , khi đi vào giấc ngủ sâu, tất cả biến thành chuyển hóa, chuyển chất bổ đã biến thành máu chuyển thành tinh khí, tập một thời liên tục thì lại chuyển tinh hóa khí giai đoạn hai diệt dục để hoàn tinh bổ não biến khí hóa thần, tập bài này suốt đời không có hại để chuyên thần hoàn hư có nghiã là thay đổi tế bào não, cải lão hoàn đồng, tăng cường trí nhớ trí thông minh.
Tại sao gọi là Đan điền Thần ?
Vị trí của Đan điền thần được định nghĩa là một lỗ rỗng Hư vô huyệt lý, ngang dọc 1 thốn 2 phân sờ và nhìn không thấy, nhưng là nơi chuyển hoá âm dương, cách tim 3 thốn 6, cách thận 3 thốn 6, đo khoảng cách từ tim (hỏa) xuống thận (thủy) là 8 thốn 4 .Tiểu vũ trụ của con người liên quan đồng nhất thể với đaị vũ trụ của trời đất nên khoảng cách từ mặt trời (hỏa) xuống mặt nước biển (thủy) là tám mươi bốn muôn ngàn dặm (84 x 10000 (muôn)x1000x dặm 1,609km) đúng như khoa học đã xác định . Điện khí hỏa của trời là dương, điện khí thủy của trái đất là âm, giữa lưng trời là điểm chuyển hóa âm dương khi đụng nhau tạo ra sét và tiếng nổ ở đó. Ở đó là nơi nào không xác định được chính xác nên ở trong thân người được gọi là hư vô huyệt lý .
Nếu muốn thường xuyên âm dương được chuyển hóa để giúp con người khỏe mạnh sống lâu con người mới tìm cách luyện đơn như Thái thượng lão quân, lập một cái lò bát quái ở Đan điền thần này gọi là lập Lư đảnh .Chất liệu để luyện đơn là hai chất độc không bao giờ có thể hòa hợp được với nhau đó là chất dương thủy ngân ( hống) và chất âm chì (diên) nung nấu trong lò ở một nhiệt độ thích hợp ( gọi là luyện công phu để hống diên giao đầu) độ lửa của lò bát quái lúc đó vừa nóng bên trong vừa nóng bên ngoài gây ra một tiềng nổ cả hai thứ tan thành chất bột đỏ tươi gọi là thần sa thường dùng để bao áo các viên thuốc tầu chữa bệnh tim, thần kinh, an thần , thần sa uống nhiều thì ngộ độc tẩu hỏa nhập ma, loại chế biến ít độc có thể uống được là chu sa, trong các triều đại Tầu dùng Chu sa bón cho con Thạch sùng ăn rồi lấy máu của Thạch sùng bôi vào cổ tay người con gái để xác nhận còn là xử nữ hay không rồi mới tiến cung , nên có điển tích của câu thơ Lấy bột chu sa bón thạch sùng. Ngày nay các nhà hàng tàu có món phở áp chảo là để lửa phừng cháy vào chảo rồi lấy ra, ăn có mùi thơm ngon đặc biệt hơn là chỉ xào bằng lửa dưới.
Khi chúng ta chọn chỗ đặt tay vào Đan điền là chúng ta đang ở thời kỳ Lập lư đảnh .Khi thở nghe bụng nóng là nóng trong, nghe bàn tay nóng chảy mồ hôi là lửa ngoài nóng,cái nóng được tăng cường theo chu kỳ khép kín để bảo toàn năng lượg, đến độ nóng nào thích hợp thì tâm hoả và thận thủy chuyển hóa gây ra một tiếng nổ đinh tai nhức óc như sét đánh, chỉ có trong đầu mình nghe được mà người ngoài không nghe được lúc đó thành tiên rồi, khó mà đạt được, nhưng để chuyển tinh hoá khí, khí hóa thần giúp sống lâu khỏe mạnh không bệnh tật thì dễ hơn mọi người đều tập được.
Các tiên gia gọi vị trí đan điền thần là cung Huỳnh đình, Đình là sân, huỳnh là vàng, tức là sân rồng nơi các bá quan văn võ cùng vua họp bàn chánh sự, các nơi báo cáo tình hình trong nước và là đầu não chỉ huy điều hành việc nước. Cho nên ý tập trung tại đan điền thần, ý là vua, các quan là những thần kinh chức năng cơ quan tạng phủ tụ tập ở đây để điều hòa các chức năng của cơ thể. Ngược lại nếu thiền theo các môn phái khác, ý tập trung tại bộ đầu, thì theo lý thuyết của khí công ý ở đâu khí ở đó, khí huyết sẽ dồn hết lên bộ đầu sinh tẩu hỏa nhập ma, bộ đầu gọi là Nê hoàn cung như phòng ngủ của vua. Nếu quốc gia nào mà ông vua cứ ở phòng ngủ nơi hậu cung vui chơi với tam cung lục viện thì sẽ mất nước, cho nên muốn nước giầu dân mạnh vua lúc nào cũng phải ra ngoài huỳnh đình cung kiểm soát công việc làm của các bá quan văn võ (âm dương, huyết khí) của các bộ (tạng phủ) thì cơ thể luôn luôn khỏe mạnh không bệnh tật.
Mọi người nên tập bài tĩnh công đến suốt đời cũng không có biến chứng tẩu hỏa nhập ma, vì càng tập là càng luyện đơn để tiến hóa, luyện đơn chắc chắn thể xác khỏe mạnh không bệnh tật, nhưng về tinh thần, trí não được phát triển, kết qủa đầu tiên cảm nhận được là : Vân thông khí công soi cốt tiết. Tinh bền khí đủ dưỡng nguyên thần. Tiếp tục tập sẽ có trạng thái : Xuất thần lên cảnh thần tiên. Học thêm tâm pháp bí truyền cao siêu. Tập đến khi thần hoàn hư : Đến bực này thì chứng kim tiên. Không không không hậu không tiền,. Không lo không nghĩ không phiền lòng ai . Đến lúc đó tôi sẽ từ giã qúy vị biệt tích giang hồ. Nói như vậy để qúy vị biết tôi chưa đạt được cảnh giới này, nên còn duyên để gặp gỡ qúy vị ..

doducngoc




























Những kinh nghiệm kiểm chứng bệnh bằng Máy Đo Áp Huyết.(Nửa hư nửa thực) sưng tuyến tiền liệt, đau vùng bẹn trái, cứng khớp gối không co vào được, chóng mặt, đau nửa đầu phải

Nam bệnh nhân khai áp huyết cao đang dùng thuốc tây y, áp huyết đã ổn định, sưng tuyến tiền liệt, đau vùng bẹn trái, cứng khớp gối không co vào được, chóng mặt, đau nửa đầu phải, tây y tìm không ra bệnh.

1-Theo lý thuyết khí công, tất cả những bệnh kể trên đều do thói quen uống nước nhiều không chuyển hóa làm to phình động mạch háng gây tắc tuần hoàn khí huyết nuôi chân, làm hư chức năng thận, làm sa xệ vùng hạ tiêu và làm xáo trộn áp huyết không ổn định, mặc dù có uống thuốc.
Đo áp huyết tay trái 92/65mmHg mạch 69, tay phải 164/94mmHg mạch 83
Số đo áp huyết tương phản đúng với những triệu chứng bệnh nhân đã khai. Chóng mặt do áp huyết bên trái thấp, nhức đầu do áp huyết bên phải cao.
clip_image002 clip_image004
2-Việc đầu tiên phải làm tăng áp huyết bên trái bằng cách  vuốt huyệt Nhĩ môn trái từ dưới lên trên 6 lần, rồi đo kiểm chứng lại, áp huyết tăng lên đến 126/93mmHg mạch 76.
Làm hạ áp huyết bên phải bằng cách tập thổi hơi ra . Khi thổi hơi ra áp huyết hai bên sẽ xuống đều. Không được cho bệnh nhân tập thổi trước khi áp huyết bên trái còn thấp sẽ làm cho bệnh nhân chóng mặt thêm. Sau khi thổi khoảng 20 hơi, đo lại áp huyết tay phải xuống còn 139/92mmHg mạch 82.
clip_image006 clip_image008
3-Hướng dẫn bệnh nhân tập nằm kéo đầu gối 30 lần, giúp cho bụng chuyển hóa, chữa đau lưng gối, làm nhỏ bụng, săn đường ruột, tuyến tiền liệt không bị sa xệ.
clip_image010
4-Dặn bệnh nhân tiếp tục thổi hơi ra thường xuyên để áp huyết được ổn định quân bình cả hai bên. Dùng thuốc tây y chỉ có công dụng làm giãn mạch bên trái phía tâm thu nhiều hơn phía tâm trương. Nhưng cách thở ra làm giãn mạch đều khắp cơ thể giúp cho thần kinh ngoại biên không bị co thắt làm cho áp huyết không tăng.
Nếu không muốn tập thổi, thay bằng Bài hát của Khí Công Y Đạo : one, two, three…

5-Tập động công : Bài Cúi Ngửa 4 Nhịp, làm tiêu mỡ bụng, khai thông động mạch háng.




Những kinh nghiệm kiểm chứng bệnh bằng Máy Đo Áp Huyết. (Hư chứng) chóng mặt đau nửa đầu (migrain) đã nhiều năm

Nam bệnh nhân chóng mặt đau nửa đầu (migrain) đã nhiều năm, dùng thuốc tây y nhiều năm không khỏi.

1-Khi bệnh nhân khai đau đầu, theo lý thuyết đông y khí công phân biệt hai loại :
Thực chứng : Sờ trên da đầu dầy xốp không dính vào hộp sọ, gõ vào đầu bị đau, da đầu nóng ấm.
Hư chứng : Sờ trên da đầu mỏng dính sát vào xương sọ, gõ vào đầu không đau, không có cảm giác, da đầu lạnh.
2-Đo áp huyết để kiểm chứng : Áp huyết tay trái đo được 85/64mmHg mạch 66, áp huyết tay phải bình thường dưới 110. Hỏi bệnh nhân đau nửa đầu bên nào, bệnh nhân cho biết đau bên trái, đó là lý do áp huyết bên tay trái thấp hơn tay phải.
clip_image002
3-Khi áp huyết thấp, không được thổi hơi ra, mà hít và thở bằng mũi, cuốn lưỡi ngậm miệng để giữ khí.
4-Vuốt huyệt Nhĩ môn bên trái từ dưới lên để làm tăng áp huyết lên đầu. Sau khi vuốt, mặt bệnh nhân hồng lên, xuất rịn mồ hội trán, da đầu nóng ấm. Đo lại áp huyết lên 113/68mmHg mạch 64
clip_image004 clip_image006
5-Bệnh này do Tâm hỏa suy, phải bổ mẹ của hỏa là Can mộc, dùng huyệt Thái xung trái, bấm bổ thuận chiều kim đồng hồ 6 lần chuyển huyết ra khí, có thể vuốt từ Hành Gian lên Thái Xung. Đo lại áp huyết đã tăng lên 129/69mmHg mạch 62.
clip_image008 clip_image010
6-Duy trì áp huyết : Hướng dẫn Nạp Khí Trung Tiêu, Tĩnh Công Thiền ý và 2 bàn tay đặt tại Đan Điền Thần. Nam bàn tay trái ở dưới, bàn tay phải ở trên. (Nữ làm ngược lại)
7-Tập Động Công : Cào đầu, Cúi Ngửa 4 Nhịp, Đứng Tấn Ngũ Hành.

8-Không ăn những chất chua làm mất máu ( chanh, cam, bưởi…) sẽ làm chóng mặt và làm hạ áp huyết, nên ăn gia vị cay, nóng, ấm như gừng để bổ thổ dưỡng hỏa.







Những kinh nghiệm kiểm chứng bệnh bằng Máy Đo Áp Huyết. Bệnh tê tay, Đau cổ tay


Bệnh nhân 1 : (Hư chứng)
Nam bệnh nhân khai đau tê cổ tay trái hơn một tháng.

Bệnh nhân 2,3,4,5....
1-Đo áp huyết tay trái 115/84mmHg mạch 78, theo lý thuyết đông y khí công, không đủ áp lực khí thúc đẩy tuần hoàn máu ra tay do phế khí yếu bởi ít vận động hay bị nhiễm cảm lâu ngày làm phế khí suy. Nhìn sắc mặt trắng không tươi sáng. Thử lại bằng huyệt, bấm vào huyệt Vân Môn bên trái đau hơn bên phải như vậy đường kinh Phế bên trái có bệnh thuộc khí do tà khí phong hàn xâm nhập.
clip_image002 clip_image003 clip_image005
2-Bổ và khai thông phế khí bằng huyệt Vân Môn có hai tác dụng : làm tăng mạnh thêm khí bảo vệ cho phổi và làm tăng áp huyết động mạch phổi. Không bấm huyệt Trung Phủ sẽ dẫn khí xuống Vị làm hạ áp huyết.
3-Bấm huyệt Thái Xung của kinh Can, có 3 tác dụng: làm khai thông can khí, làm tăng áp huyết và giảm đau. Nếu không làm mạnh phế trước mà làm mạnh gan trước. lúc đó tà khí trong gan thừa cơ xâm lấn vào phổi vì lúc đó phế khí yếu.
Sau khi bấm huyệt Vâm Môn, Thái Xung, đo lại áp huyết được 123/81mmHg mạch 78
clip_image007 clip_image009
4-Tập động công : Nằm ngửa, cánh tay xuôi theo thân mình, bàn tay ngửa. Bảo bệnh nhân hít vào bằng mũi, nắm chặt bàn tay lại, Thở ra bằng mũi, mở lỏng xòe bàn tay ra. Tập 30 lần. Tập Bài Vỗ Tay 4 Nhịp, bàn tay thả lỏng, mềm, để cho máu lưu thông từ vai xuống bàn tay và ngược lại, được dễ dàng.
5-Bảo bệnh nhân cử động tay vai và bàn tay để tìm xem còn chỗ nào đau hay không. Khi bệnh nhân xác nhận không còn đau mới là hết bệnh, nhưng về nhà vẫn cần phải tập khí công những bài đã hướng dẫn để duy trì sức khỏe.
---------------------------------------------------------------------
Bệnh nhân 2 : : Đau cổ tay trái (Thực chứng)
Nam bệnh nhân khai đau cổ tay trái, cử động đau, 5 ngón tay và bàn tay tê cứng nắm vào không chặt.
1-Đo áp huyết kiểm chứng hai tay, bên trái 150/96mmHg mạch 79, bên phải 133/85mmHg mạch 79, như vậy chứng tỏ áp huyết bên tay trái bị tắc nghẽn.
clip_image011 clip_image013
2-Đầu tiên phải giúp bệnh nhân làm hạ áp lực khí huyết bên tay trái để thần kinh ngoại biên giảm co thắt bằng cách tập thở làm hạ áp huyết (xem bài cách tập thở làm hạ áp huyết), sau đó đo lạI áp huyết thấy xuống còn 128/84mmHg mạch 84. Để bệnh nhân tự thở rồi đo lại, áp huyết được ổn định 128/88mmHg mạch 87
clip_image015 clip_image017
3-Bảo bệnh nhân nắm hai bàn tay lại xem dễ dàng chưa và còn đau không, bệnh nhân cảm thấy bàn tay bớt đau rất nhiều, nhưng khi quan sát hai bàn tay, chúng ta thấy bàn tay trái nắm vào chưa được chặt, cần phải giúp cho máu lưu thong ra đến bàn tay nhiều hơn bằng cách hướng dẫn bệnh nhân khi hít vào thì nắm 5 ngón tay chặt vào bàn tay, mình dùng bàn tay của mình đè phụ vào đoạn cổ tay của bệnh nhân, chính đoạn này giúp cho gân bàn tay tự động co bàn tay vào, khi bệnh nhân thở ra, mình dùng bàn tay của mình ấn đè phụ vào đoạn nhượng tay ngoài giúp bàn tay tự động mở duỗi 5 ngón ra . Tập hít thở nắm mở 5 ngón tay 20 lần, cho đến khi bệnh nhân tự tập nắm mở lấy cảm nhân được bàn tay có lực, bê xách đồ vật nặng bằng bàn tay ấy không còn cảm giác đau nữa mới xem là khỏi bệnh.
clip_image019 clip_image021
clip_image023 clip_image025
4-Hướng dẫn cho bệnh nhân biết cách tự tập thở và bấm huyệt Hợp Cốc để làm hạ áp huyết cho 2 tay xuống đều nhau.
clip_image027 clip_image029
5-Để duy trì kết qủa lâu dài, bệnh không tái phát, hướng dẫn bệnh nhân tập động công Bài Vỗ Tay 4 Nhịp, Bài Dậm chân hát one, two, three…cho máu lưu thông ra đầu tay đầu chân.
--------------------------------------------------------------------
Bệnh nhân 3 : (Thực trong hư)
Nam bệnh nhân khai bệnh tê đau bàn tay và cổ tay phải, không có sức cầm ly nước..
1-Đo áp huyết tay phải 120/77mmHg mạch 78,  tay trái 117/75mmHg mạch 70, hỏi bệnh nhân đau tay nào để xác nhận tình trạng lưu thông khí huyết đủ hay thiếu, bệnh nhân cho biết đau tay phải, chứng tỏ thuộc bệnh thực trong hư, vì áp lực bên phải cao hơn, mạch đập mạnh hơn để đẩy khí huyết ra đến đầu ngón tay mà không đủ khí huyết trở về tim, có dấu hiệu 5 ngón tay cứng lạnh, không cảm giác, không nắm chặt các ngón tay vào được..
clip_image031 clip_image033
2-Dùng kim tiểu đường châm Thập nhị tỉnh huyệt để khai thông 6 đường kinh trên tay phải, châm ngón nào thì bấm bẻ khớp ngón đó ép vào lòng bàn tay cho góc các khớp ngón vuông góc, bấm bẻ ép đủ 5 ngón, rồi bảo bệnh nhân tập nắm chặt các ngón tay vào lòng bàn tay khi hít vào, và xòe 5 ngón tay ra khi thở ra, tập 30 lần, rồi cho biết cảm giác cổ tay và ngón tay còn đau tê không, nắm bàn tay vào được chặt chưa.
clip_image035 clip_image037 clip_image039
clip_image041 clip_image043 clip_image045
3-Bệnh nhân tập cầm thử một quyển sách nặng đưa lên đưa xuống vài lần, và cho biết tay hết đau, 5 ngón tay đã có sức nắm chặt được vật nặng.
4-Chính bệnh nhân này 1 năm trước đã bị đau lưng do thoái hóa các đĩa đệm, đã từng chữa chiropratic, physiotherapy hơn một năm không khỏi, tinh thần sa sút chán nản. Anh kể rằng vợ anh khuyên anh đến gặp tôi, anh không chịu vì không tin rằng ngoài hai phương pháp trên đã không chữa được thì còn phương pháp nào hay hơn nữa được. Người vợ khuyên rằng cho dù anh không tin Thầy không chữa được, nhưng anh cũng nên đến để Thầy xem, và dù sao Thầy cũng cho anh một lời khuyên.
5-Hôm nay chính anh kể, và cho biết chỉ sau 2 lần đến điều chỉnh bằng phương pháp khí công y đạo, bệnh đau lưng của anh đã hết hẳn, còn hôm nay chỉ đến một lần đã khỏi bệnh tê đau cổ tay. Anh mừng qúa hứa tặng cho tôi một món qùa kỷ niệm để bầy tỏ lòng biết ơn của hai vợ chồng anh.
6-Một tuần lễ sau hai vợ chồng anh đem đến một món qùa đặc biệt từ Việt Nam và chụp một tấm hình lưu niệm.
clip_image047 clip_image049
------------------------------------------------------------------
Bệnh nhân 4 :
Nữ bệnh nhân khai tê đau cổ tay phải, bàn tay nắm không chặt 5 ngón được.
1- Đo áp huyết tay phải cao 153/95mmHg mạch 91.Sau khi hướng dẫn tập thở làm hạ áp huyết rồi đo lại áp huyết xuống 136/93mmHg mạch 84
clip_image051 clip_image053 clip_image055
2-Hướng dẫn bệnh nhân hít vào nắm bàn tay và ngón tay chặt lại, thở ra xòe 5 ngón tay ra. Nắm mở bàn tay ngón tay theo hơi thở ra vào đều đều 30 lần, rồi đo lại áp huyết xuống còn 129/84mmHg mạch 85. Bệnh nhân cho biết tay hết đau. Hướng dẫn bệnh nhân tập vỗ tay 4 nhịp để biết cách về nhà tập tiếp.
----------------------------------------------------
Bệnh nhân 5  :
Nữ bệnh nhân bị đau cánh tay dưới và cổ tay bên trái .
1- Đo áp huyết tay phải 176/88mmHg mạch 81, tay trái 148/69mmHg mạch 80, bệnh nhân đau tay trái, khi so sánh áp huyết hai bên đều là thực chứng, nhưng tay trái yếu hơn tay phải, nên bệnh thuộc chứng hư trong thực. Việc đâu tiên tập thở làm hạ áp huy ết hai bên, sau khi tập thở, áp huyết hạ xuống 132/76mmHg mạch 75
2-Chữa đau tay trái bằng cách để hai ngón tay ấn đè vào huyệt Khúc Trạch, Xích Trạch, tay kia cầm cổ tay bệnh nhân ép vào vai trong khi thở ra để giảm đau. Hít thở và ép tay cùng một lúc nhiều lần cho đến khi hết đau..
clip_image057 clip_image059 clip_image061
clip_image063 clip_image065 clip_image067
3-Tập ép nắm mở bàn tay :
clip_image069
clip_image071